Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

Thơ Henry Austin Dobson

 


Henry Austin Dobson (18 tháng 1 năm 1840 – 2 tháng 9 năm 1921) – nhà thơ, nhà văn Anh.
 
Tiểu sử
Austin Dobson sinh tại Plymouth, là con trai cả của George Clarisse Dobson, một kỹ sư xây dựng người gốc Pháp. Khi Dobson lên tám tuổi gia đình chuyển đến Holyhead, cậu bé Dobson học ở Beaumaris, Anglesey.
 
Khi trưởng thành, Dobson bắt đầu nhận thấy mình thích làm thơ. Những buổi tối anh thích ngồi bên cửa sổ ngắm mây trời, những ý tưởng về những sáng tạo trong tương lai bắt đầu nảy ra trong đầu nhà thơ trẻ. Austin Dobson bắt đầu dành toàn bộ thời gian rảnh rỗi cho công việc này.
 
Cuối năm 1856 Dobson được nhận vào làm việc tại Bộ Thương mại. Ông làm việc rất tốt nên mấy năm sau ông đã được bổ nhiệm làm giám đốc cảng. Năm 1868, Austin Dobson quyết định lập gia đình. Vợ ông,  Frances Mary, là một cô gái xinh đẹp và giỏi giang. Họ bắt đầu có con và ông đã làm mọi cách để chúng được sống sung túc.
 
Ngoài thơ, Austin Dobson còn viết tiểu sử về những nhân vật nổi tiếng như Fielding, Goldsmith, Walpole và Hogarth. Ông ngưỡng mộ những con người này, ngưỡng mộ tài năng và sự sáng tạo của họ.
 
Dobson mất năm 1921 và tang lễ của ông được tổ chức vào ngày 6 tháng 9 tại Nhà thờ St Peter ở Ealing. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Westminster, Middlesex.
 
3 bài thơ
 


BALLAD ĐỒ CỔ
 
Ngày đang tàn như cỏ hoa trong nắng
Năm tháng như dòng nước lững lờ trôi
Tất cả đều qua nhanh hết, than ôi!
Như chiếc lá bay theo làn gió cuốn
Mặt trời mới buổi bình minh chầm chậm
Lại theo đường chân trời cũ đi lên
Thời gian gặt và giờ ta nhặt nhạnh
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
Ta gom nhặt những gì trong quá khứ
Bỏ vào thùng để gió chẳng cuốn đi
Như người keo kiệt không chừa thứ gì
Mà số phận ban cho hàng thế kỷ
Những mảnh vở và những biên niên sử
Những bài thơ, những câu chuyện hoang đường
Những trang phục và những bàn tiệc cũ
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
Ta đi gom nhặt những câu chuyện tình
Những bông hoa trong những khu vườn cổ
Những ghi chép cũ ghi trên ngôi mộ
Những chiến lợi phẩm và những cung tên
Những bộ xương cổ, xác những con thuyền
Những di tích cổ còn trên mặt đất
Tất cả những gì lang thang phiêu bạt
Những chút gì còn lại sau thời gian!
 
LỜI GỬI
 
Những bạn bè quen biết hoặc chưa quen
Trong đêm trước Giáng sinh này xin nhớ
Hãy bảo vệ những gì đang phân rã
Những chút gì còn lại sau thời gian.
 
A Ballad of Antiquaries
 
The days decay as flowers of grass,
The years as silent waters flow;
All things that are depart, alas!
As leaves the winnowing breezes strow;
And still while yet, full-orbed and slow,
New suns the old horizon climb,
Old Time must reap, as others sow:
We are the gleaners after Time!
 
We garner all the things that pass,
We harbour all the winds may blow;
As misers we up-store, amass
All gifts the hurrying Fates bestow;
Old chronicles of feast and show,
Old waifs of by-gone rune and rhyme,
Old jests that made old banquets glow: -
We are the gleaners after Time!
 
We hoard old lore of lad and lass,
Old flowers that in old gardens grow,
Old records writ on tomb and brass,
Old spoils of arrow-head and bow,
Old wrecks of old worlds' overthrow,
Old relics of Earth's primal slime,
All drift that wanders to and fro: -
We are the gleaners after Time!
 
ENVOY
 
Friends, that we know not and we know!
We pray you, by this Christmas chime,
Help us to save the things that go:
We are the gleaners after Time.
 
 
URCEUS EXIT*
 
Tôi định viết tụng ca
Lại thành ra sonnet
Làm điều này theo mốt
Tôi định viết tụng ca
Nhưng Rose đi qua
Đội mũ người Ê-cốt
Tôi định viết tụng ca
Lại thành ra sonnet.
____________
*Những lời này lấy từ cuốn “Nghệ thuật thơ ca” (Ars Poetica) của Horace nói về người thợ gốm định nặn bình lại thành ra chậu.
 
Urceus Exit
 
I INTENDED an Ode,
And it turn'd to a Sonnet
It began a la mode,
I intended an Ode;
But Rose cross'd the road
In her latest new bonnet;
I intended an Ode;
And it turn'd to a Sonnet.
 
 


NỤ HÔN
 
Rose hôn tôi hôm nay
Ngày mai có còn hôn nữa?
Cứ để cho đời như vậy
Rose hôn tôi hôm nay.
Nhưng mà chẳng có niềm vui
Và tôi trở nên buồn bã
Rose hôn tôi hôm nay
Ngày mai có còn hôn nữa?
 
A Kiss
 
Rose kissed me to-day.
Will she kiss me tomorrow?
Let it be as it may,
Rose kissed me today.
But the pleasure gives way
To a savour of sorrow;-
Rose kissed me to-day,-
Will she kiss me tomorrow?


Thơ Katherine Philips

 



Katherine Philips (1 tháng 1 năm 1631 – 22 tháng 6 năm 1664) – nhà thơ, dịch giả người Anh. Bà nổi tiếng với tư cách là dịch giả các vở kịch “Pompée” và “Horace” của Pierre Corneille ra tiếng Anh. Bà được nhiều nhà văn, nhà thơ bao gồm cả John Dryden và John Keats, đánh giá cao.
 
Tiểu sử
Katherine Phillips sinh ở Luân Đôn. Lên 4 tuổi đã đọc Kinh Thánh một cách thành thạo và biết nhiều ngoại ngữ. Năm 1647, lên mười sáu tuổi, cô kết hôn với một nghị sĩ xứ Wales tên là James Phillips, người được cho là 54 tuổi. Tuy nhiên, một tờ giấy đăng ký kết hôn đã chứng minh rằng anh ta chỉ mới 24 tuổi. Cặp đôi có hai người con trong đó có cậu con trai tên là Hector chết sớm. Cái chết của Hector là chủ đề cho một số bài thơ sau này của Philips, chẳng hạn như “Về cái chết của đứa con đầu lòng”.
 
Năm 1662, bà đến Dublin để theo đuổi yêu sách của chồng mình đối với một số bất động sản ở Ireland do những khoản đầu tư tiền tệ trong quá khứ của người cha quá cố vào quân đội Anh. Tại đây bà đã hoàn thành bản dịch vở kịch “Pompée” của Pierre Corneille, được dàn dựng thành công năm 1663 tại Nhà hát Smock Alley và được in thành sách cùng năm ở Dublin và London với tựa đề “Pompey”.
 
Tháng 3 năm 1664 Philips trở về Luân Đôn với bản dịch vở kịch “Horace” của Corneille gần như đã hoàn thành nhưng đã qua đời vì bệnh đậu mùa. Bà được chôn cất tại nhà thờ St Benet Sherehog, nhà thờ này đã bị phá hủy trong trận Đại hỏa hoạn Luân Đôn 1666.
 
2 bài thơ
 


VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐỨA CON ĐẦU LÒNG
 
Tôi lấy chồng đã gần được bảy năm
Rồi cũng sinh được thằng con yêu dấu
Sau bốn chục ngày con không còn nữa
Thật oái oăm niềm vui của người trần!
 
Vừa nhìn thấy con thì con đã mất
Vừa chạm tay đã rụng xuống bông hồng
Nhưng tôi không sợ hãi, không đau buồn
Giống như một bệnh nhân sắp phải chết.
 
Vì đau buồn giúp ích được gì không
Cho cái cảnh trái ngang vì số kiếp?
Nước mắt – nàng thơ, nỗi buồn – nghệ thuật
Tôi viết cho con một khúc bi thương.
 
Tìm một nơi kín đáo mẹ khóc con
Để không ai nhận thấy điều mất mát
Ôi thế gian này bao la bát ngát
Chẳng có lòng thương và thật nhẫn tâm.
 
Mẹ biết đặt gì lên mộ đau buồn
Chỉ những câu thơ bất chấp mọi thứ
Con hãy cất bài thơ này trong mộ
Bài thơ cuối cùng của mẹ đó con.
_____________
*Bài thơ về đứa con trai đầu lòng Hector Philips đã chết sau khi sinh ra 6 tuần. Trên thực tế thì đây không phải là bài thơ cuối cùng của Katherine Philips.
 
On the Death of My First and Dearest Child, Hector Philips
 
Twice forty months in wedlock I did stay,
Then had my vows crowned with a lovely boy.
And yet in forty days he dropped away;
O swift vicissitude of human joy!
 
I did but see him, and he disappeared,
I did but touch the rosebud, and it fell;
A sorrow unforeseen and scarcely feared,
So ill can mortals their afflictions spell.
 
And now (sweet babe) what can my trembling heart
Suggest to right my doleful fate or thee?
Tears are my muse, and sorrow all my art,
So piercing groans must be thy elegy.
 
Thus whilst no eye is witness of my moan,
I grieve thy loss (ah, boy too dear to live!)
And let the unconcerned world alone,
Who neither will, nor can refreshment give.
 
An offering too for thy sad tomb I have,
Too just a tribute to thy early hearse;
Receive these gasping numbers to thy grave,
The last of thy unhappy mother's verse.
 
 


BÀI CA
 
Quả thật, đời ta chỉ là bệnh tật
Chỉ nỗi đau mà cứ ngỡ dễ dàng
Những ngôi sao là hạnh phúc, thành công
Xin hãy nói giùm cho tôi biết
Tại vì sao khó để mà chết
Còn sống thì cũng chẳng giản đơn!
 
Nếu niềm vui bị đánh tráo bằng nỗi buồn
Thì ai trả lại cho ta cuộc sống
Mọi thứ đều do số phận, thời gian
Không còn niềm hy vọng
Không còn mục đích cuộc sống
Ta không coi là gánh nặng của mình.
 
Song
 
'Tis true our life is but a long disease,
Made up of real pain and seeming ease.
You stars, who these entangled fortunes give,
O tell me why
It is so hard to die,
Yet such a task to live!
 
If with some pleasureb we our griefs betray,
It costs us dearer than it can repay,
For time or fortune all things so devours,
Our hopes are crossed,
Or els the object lost,
Ere we can call it ours.
 


Thơ William Makepeace Thackeray

 


William Makepeace Thackeray (18 tháng 7 năm 1811 – 24 tháng 12 năm 1863) – nhà văn, nhà thơ Anh, một bậc thầy về tiểu thuyết hiện thực được công nhận, một trong những tiểu thuyết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ 19.
 
Tiểu sử
Thackeray sinh tại Calcutta, Ấn Độ, nơi ông nội và cha của ông phục vụ. Năm 1815 cha của William qua đời, cậu bé được mẹ gửi về Luân Đôn để học. Trong các năm 1822-1828 William học tại trường Charterhouse, một trường quý tộc lâu đời. Cậu bé Thackeray đặc biệt thích đọc những cuốn sách của Defoe, Fielding và Swift. Năm 18 tuổi, William vào học tại Đại học Cambridge nhưng chỉ là sinh viên chưa đầy một năm.
 
Chưa hoàn thành xong việc học, Thackeray đi sang Đức, ông gặp Goethe, sau đó đến Paris để học hội họa. Năm 1832 Thackeray đã sở hữu một số vốn đáng kể nhưng do thua bài nhiều và những nỗ lực để trở thành nhà xuất bản không thành công đã nhanh chóng cướp đi tài sản được thừa kế của ông.
 
Năm 1837 Thackeray kết hôn nhưng cuộc sống gia đình mang lại cho ông nhiều cay đắng do người vợ mắc bệnh tâm thần. Sau khi vợ phải cách ly, Thackeray sống với hai cô con gái (đứa thứ ba chết khi còn nhỏ). Con gái lớn của ông cũng trở thành một nhà văn.
 
Cuốn “Hội chợ phù hoa” (Vanity Fair) xuất bản năm 1847-1848 trở thành tác phẩm đầu tiên được ký tên thật của tác giả (trước đó ông chỉ dùng bút danh). Cuốn tiểu thuyết này trở thành thành tựu đỉnh cao của ông, mang lại cho ông danh tiếng, tài chính và nâng cao địa vị xã hội của ông. “Hội chợ phù hoa” đã mở ra cánh cửa vào xã hội thượng lưu cho Thackeray.
 
Sau “Hội chợ phù hoa” ông tiếp tục xuất bản các tiểu thuyết: Pendennis (1848-50); “Lịch sử về Henry Esmond” (The History of Henry Esmond, 1852); “Gia đình Newcomes” (The Newcomes, 1855) vv… Tuy nhiên, di sản sáng tạo của ông không chỉ bao gồm tiểu thuyết mà rất đa dạng về thể loại. Thackeray là tác giả của những bản ballad và thơ, truyện hài hước, truyện tranh, truyện cổ tích, tiểu luận, truyện nhại. Nhà văn đã thuyết trình ở Anh và Hoa Kỳ, những bài thuyết trình này được sưu tầm và xuất bản thành sách năm 1853 với tên gọi “Những nhà hài hước người Anh thế kỷ 18” (The English Humorists of the Eighteenth Century).
 
William Thackeray chết vì đột quỵ ngày 24 tháng 12 năm 1863 và được chôn cất tại Nghĩa trang Kensal Green ở Luân Đôn. “Denis Duval” là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông vẫn còn dang dở.
 
2 bài thơ
 


NỖI ĐAU CỦA CHÀNG WERTHER
 
Chàng Werther yêu nàng Charlotte
Có lẽ chưa từng ai yêu như thế
Bạn có biết lần đầu chàng gặp gỡ
Khi cô nàng thái bánh mì kẹp bơ.
 
Charlotte là người đã có gia đình
Werther là người đàn ông đạo đức
Chàng không muốn đem điều gì đặt cược
Để làm cho người yêu dấu tổn thương.
 
Chàng thở dài, nức nở, chàng đau buồn
Nhưng niềm đam mê ngày càng sôi sục
Cuối cùng chàng đã tìm ra súng lục
Bắn vào trán mình cho não nổ tung.
 
Charlotte nhìn xác của Werther
Trong tim chàng ngọn lửa tình đã tắt
Nhưng như người đàn bà có giáo dục
Nàng tiếp tục thái bánh mì kẹp bơ.
 
Sorrows of Werther
 
Werther had a love for Charlotte
   Such as words could never utter;
Would you know how he first he met her?
   She was cutting bread and butter.
 
Charlotte was a married lady,
   And a moral man was Werther,
And for all the wealth of Indies,
   Would do nothing for to hurt her.
 
So he sighed and pined and ogled,
   And his passion boiled and bubbled,
Till he blew his silly brains out,
   And no more was by it troubled.
 
Charlotte, having seen his body
   Born before her on a shutter
Like a well-conducted person,
   Went on cutting bread and butter.
 
 


VANITAS VANITATUM*
 
Lời của nhà thông thái, vua Solomon?
(Từ cuốn sách mà tôi luôn thích đọc)
Rằng công việc của loài người rốt cục
Tất cả hư không, thảy đều hư không.
 
Một cuốn sách có bìa được mạ vàng
Mà những học sinh thường dùng để học
Nhưng những lời này là khôn ngoan nhất
Quí giá hơn mọi chân lý trần gian!
 
Chìa khóa của tồn tại chớ đi tìm**
Ở những người Nga, Anh, Pháp, Đức
Trong album có hàng trăm bài viết
Bằng những ngôn ngữ trên khắp hành tinh!
 
Những câu chuyện về cuộc đời con người
Một chuỗi phiêu lưu, biết bao thay đổi
Tuyệt vời hơn biết bao câu chuyện mới
Có biết bao nhiêu biến đổi ở đây!
 
Một loạt những trận thua và trận thắng
Trong số phận đầy những thứ bất ngờ
Sinh và tử, xuống chó và lên voi
Cái thấp hèn trong những điều cao thượng.
 
Bạn nhìn thấy hào quang và sụp đổ
Sự nghiệt ngã trong số phận con người
Nỗi sợ hãi đồng hành khắp mọi nơi
Sự phản bội, dối gian và đau khổ.
 
Người thấp hèn vươn lên cao ra sao
Người cao thượng từ trên cao lộn xuống
Tất cả đều là hư không, phù phiếm
Là mớ bòng bong như một trò đùa!
 
Giữa trang những câu đùa của Janin**
Và trang của Đại sứ từ nước Thổ
Tôi viết tên của mình lên trên đó
Và tôi kết thúc bài giảng của mình.
_____________
*Hư không, thảy đều hư không (tiếng Latin).
**Janin – nhà văn, nhà phê bình và nhà báo Pháp, Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. William Thackeray viết giữa các trang của Jules Janin và Đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ trong cuốn album dành cho khách mời của Madame de R., trong đó có chữ ký của các vị vua, hoàng tử, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà ngoại giao, nhà văn và chính khách từ các quốc gia khác nhau.
 
Vanitas Vanitatum
 
How spake of old the Royal Seer?
(His text is one I love to treat on.)
This life of ours he said is sheer
Mataiotes Mataioteton.
 
O Student of this gilded Book,
Declare, while musing on its pages,
If truer words were ever spoke
By ancient, or by modern sages!
 
The various authors' names but note,*
French, Spanish, English, Russians, Germans:
And in the volume polyglot,
Sure you may read a hundred sermons!
 
What histories of life are here,
More wild than all romancers' stories;
What wondrous transformations queer,
What homilies on human glories!
 
What theme for sorrow or for scorn!
What chronicle of Fate's surprises—
Of adverse fortune nobly borne,
Of chances, changes, ruins, rises!
 
Of thrones upset, and sceptres broke,
How strange a record here is written!
Of honors, dealt as if in joke;
Of brave desert unkindly smitten.
 
How low men were, and how they rise!
How high they were, and how they tumble!
O vanity of vanities!
O laughable, pathetic jumble!
 
Here between honest Janin's joke
And his Turk Excellency's firman,
I write my name upon the book:
I write my name—and end my sermon.
______________
*Between a page by Jules Janin, and a poem by the Turkish Ambassador, in Madame de R...’s album, containing the autographs of kings, princes, poets, marshals, musicians, diplomatists, statesmen, artists, and men of letters of all nations.
 


Thơ Matthew Prior

 


Matthew Prior (21 tháng 7 năm 1664 – 18 tháng 9 năm 1721) – nhà ngoại giao, nhà thơ Anh.
 
Tiểu sử
Prior sinh ở Middlesex, học tại trường Westminter, nhưng sau cái chết của cha mình, Prior buộc phải bỏ dở việc học và đến ở với chú. Từ nhỏ cậu bé Prior đã thích văn chương, một hôm Bá tước Dorset thấy cậu bé đọc thơ của Horace và bảo cậu dịch một bài. Prior dịch hay đến mức ngài Bá tước đồng ý đứng ra bảo trợ cho cậu được tiếp tục việc học tại trường Westminster. Tại đây Prior gặp gỡ và kết thân với Charles Montague, sau này là Bá tước Halifax. Để không phải chia tay Montague, chàng trai đồng ý với nguyện vọng của người bảo trợ cho mình là thi vào Đại học Cambridge. Prior vào làm việc trong ngành ngoại giao sau ba năm tốt nghiệp Đại học Cambridge. 
 
Kiến thức về tiếng Pháp đã giúp cho nhà thơ được bổ nhiệm làm Đại sứ Anh tại Pháp. Sau khi trở về từ Pháp, ông trở thành Thứ trưởng Ngoại giao rồi Bộ trưởng Bộ Thương mại. Dưới thời Nữ hoàng Anne, ông ủng hộ đảng Tories, sau khi bà lên nắm quyền cho đến cuối đời của Nữ hoàng, ông đã đóng một vai trò quan trọng trong mọi cuộc đàm phán với triều đình Pháp. Sau cái chết của Nữ hoàng Anne và sự trở lại của đảng Whigs, Prior bị truy tố vì tham gia vào các kế hoạch của Bá tước Oxford và phải ngồi tù hai năm (từ 1715 đến 1717). Trong tù ông vẫn miệt mài lao động sáng tạo. Sau khi được thả ông rút lui khỏi chính trường và sống những năm cuối đời ở Cambridgeshire.
 
Ông qua đời tại Wimpole, Cambridgeshire và được chôn cất tại Tu viện Westminster, nơi có thể nhìn thấy tượng đài của ông trong “Góc Thi Sĩ” (Poets 'Corner). 
 
4 bài thơ
 


BÀI ODE
 
Một thương gia đem tài sản giấu đi
Dưới một cái tên người khác
Về Euphelia – bài thơ tôi viết
Để giấu tình yêu thật với Cloe.
 
Những câu thơ dịu dàng nhất tôi viết
Mang tiếng là ca ngợi Euphelia
Còn với thần tượng của tôi – Cloe
Đáng ra phải chơi, đáng ra phải hát.
 
Tôi dành tặng bài thơ cho cả hai
Tôi kết hợp niềm vui cùng buồn tủi
Khi dành cho Euphelia lời khen ngợi
Tôi đắm chìm trong đôi mắt Cloe.
 
Nhưng vẻ u ám của Euphelia
Và sự xấu hổ làm Cloe đỏ mặt
Thần Vệ nữ nói với thần Cupid
Rằng chúng tôi không biết cách giả vờ.
 
An Ode
 
THE merchant, to secure his treasure,
Conveys it in a borrowed name:
Euphelia serves to grace my measure;
But Cloe is my real Flame.
 
My softest verse, my darling lyre
Upon Euphelia's toilet lay;
When Cloe noted her desire,
That I should sing, that I should play.
 
My lyre I tune, my voice I raise;
But with my numbers mix my sighs:
And whilst I sing Euphelia's praise,
I fix my soul on Cloe's eyes.
 
Fair Cloe blush'd: Euphelia frowned:
I sung and gazed: I played and trembled:
And Venus to the Loves around
Remarked, how ill we all dissembled.

 

 
CÔ GÁI TRUNG THỰC
 
Nàng: Ồ không, sự trinh tiết của em
Nếu không còn thì em đây sẽ chết.
Chàng: Tối qua em khóc lóc thảm thiết
Hoa hồng ơi, em có đau lắm không?
 
A True Maid
 
NO, no; for my virginity,
When I lose that, says Rose, I'll die:
Behind the elms last night, cried Dick,
Rose, were you not extremely sick?
 
 
THƠ TRÀO PHÚNG
 
Rằng mọi nhà thơ đều những kẻ đần
Tôi đồng ý, có thể là như thế
Nhưng có một điều trái với tự nhiên
Chắc gì bạn có thể làm thi sĩ?
 
Epigram - Yes, Every Poet Is A Fool
 
Yes, every poet is a fool;
By demonstration, Ned can show it:
Happy could Ned’s inverted rule
Prove every fool to be a poet.
 
 
VỀ CÁI CHẾT CỦA HALL
 
Hall tội nghiệp đã chết dưới mưa giông
Khi nửa đêm đợi cùng Nan gặp gỡ
Người không đến nhưng anh ta ở đó
Để trời mưa dập tắt ngọn lửa tình.
 
Bạn hãy ghi những dòng này vào vở
Nhớ chỉ làm tình ở nhà rồi đi ngủ.
 
An Epigram. On Hall’s Death 
 
Poor HALL caught his death standing under a spout,
Expecting till midnight when NAN would come out,
But fatal his patience, as cruel the Dame,
And curst was the Weather that quench’d the man’s flame.
 
Whooe’er though art, that read’st these moral lines,
Make love at home, and go to bed betimes.
 


Thơ Edward Dyer

 


Sir Edward Dyer (tháng 10 năm 1543 – tháng 5 năm 1607) – là một cận thần và nhà thơ người Anh.
 
Tiểu sử
Edward Dyer sinh ở Glastonbury, Somerset. Học tại Oxford hoặc tại Broadgates Hall nhưng học xong mà không được cấp bằng. Năm 1566, Dyer đã vào được triều đình dưới sự bảo trợ của Robert Dudley, Bá tước của Leicester. Dường như ông đã có được một số ân huệ từ Nữ hoàng Elizabeth I nhưng sau đó đã để mất cơ hội.
 
Năm 1580, Gabriel Harvey trong một bức thư gửi Spencer gọi Sidney và Dyer là “hai viên kim cương trong triều đình của Nữ hoàng với nhiều phẩm chất đặc biệt và hiếm có”. Đầu năm 1584, Dyer được cử đi sứ ở Hà Lan. Một vài năm sau, ông được gửi đến Đan Mạch. Năm 1596, ông được phong tước Hiệp sĩ.
 
Edward Dyer qua đời năm 1607 và được chôn cất tại nhà thờ St Saviour's, Southwark.
 
 
3 bài thơ
 


GỬI PHILLIS, CÔ GÁI ĐẸP CHĂN CỪU
 
Thức dậy buổi bình minh
Khi tôi nhìn Phillis
Như con chim thức giấc
Trong buổi sớm mai hồng.
 
Nàng mỉm cưởi bước trên
Những bông hoa mùa xuân
Đàn cừu tung tăng bước
Theo bàn chân của nàng.
 
Nhưng nàng có trái tim
Như đá trong lồng ngực
Nàng không hề thương xót
Và cũng chẳng ban ơn.
 
Mặt trời hãy thức dậy
Ngọn lửa trong tim nàng
Và chim hãy hát lên
Sao cho nàng thương hại!
 
Những bông hoa hãy nói
Rằng sắc đẹp giết người
Nếu nàng không yêu tôi
Hãy nhìn tôi hấp hối.
 
To Phillis, The Faire Sheeperdesse
 
My Phillis hath the morninge Sunne,
at first to looke upon her:
And Phillis hath morne-waking birds,
her risinge still to honour.
 
My Phillis hath prime-featherd flowres,
that smile when she treads on them:
And Phillis hath a gallant flocke,
that leapes since she dooth owne them.
 
But Phillis hath too hard a hart,
alas, that she should have it:
It yeelds no mercie to desert,
nor grace to those that crave it.
 
Sweete Sunne, when thou look'st on,
pray her regard my moane!
Sweete birds, when you sing to her,
to yeeld some pitty, woo her!
 
Sweet flowers that she treads on,
tell her, her beauty deads one.
And if in life her love she nill agree me,
Pray her before I die, she will come see me.
 
 


SỰ MÂU THUẪN CỦA TÌNH YÊU
 
Hiếm khi nghe và hiếm khi nhìn thấy
Một điều gì không có trong tự nhiên
Giống như ngọn lửa suốt tháng quanh năm
Cứ rực cháy mà không cần đến củi.
 
Tôi từng thấy trường hợp rất lạ lùng
Một người hạnh phúc nhưng luôn đau khổ
Một người khác yêu lạ lùng hơn nữa
Sống trong tình mà như ở trong sương.
 
Có đầy đủ vẫn nghĩ mình thiếu thốn
Không tin rằng mình đã có tình yêu.
Tại sao tình cảm đã được lấp đầy
Mà vẫn cứ khát khao hoài dục vọng.
 
Love-Contradictions
 
As rare to hear as seldom to be seen,
It cannot be nor never yet hath been
That fire should burn with perfect heat and flame
Without some matter for to yield the same.
 
A stranger case yet true by prove I know
A man in joy that liveth still in woe:
A harder hap who hath his love at list
Yet lives in love as he all love had mist:
 
Who hath enough, yet thinks he lives without,
Lacking no love yet still he stands in doubt.
What discontent to live in such desire,
To have his will yet ever to require.
 
 


TÌNH KHIÊM TỐN
 
Cây dù thấp đến mấy luôn có ngọn
Con ruồi con kiến vẫn có nỗi buồn
Và có nọc độc ở những con ong
Những sợi tóc cũng cho ta chiếc bóng
Biển có nguồn, trước tình yêu bình đẳng
Dù bạn là vua hay kẻ ăn xin.
 
Nơi nước lặng là đáy sâu vô cùng
Có chuyển động mà mắt không nhận biết
Không cần nhiều lời để có lòng tin
Rùa không hát, còn trái tim chân thật
Không có lưỡi, chỉ có tai và mắt
Nghe, thấy, thở dài sau đó vỡ tung.
 
A Modest Love
 
The lowest trees have tops, the ant her gall,
The fly her spleen, the little sparks their heat;
The slender hairs cast shadows, though but small,
And bees have stings, although they be not great;
Seas have their source, and so have shallow springs;
And love is love, in beggars as in kings.
 
Where rivers smoothest run, deep are the fords;
The dial stirs, yet none perceives it move;
The firmest faith is in the fewest words;
The turtles cannot sing, and yet they love:
True hearts have eyes and ears, no tongues to speak;
They hear and see, and sigh, and then they break.