Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020

Thơ Mary, Nữ hoàng Scotland

 

Mary, Nữ hoàng Scotland (8 tháng 12 năm 1542 – 8 tháng 2 năm 1587), còn được gọi là Mary Stuart hoặc Mary I của Scotland, trị vì Scotland từ ngày 14 tháng 12 năm 1542 đến ngày 24 tháng 7 năm 1567. Bà cũng là Nữ hoàng Pháp các năm 1559 -1560 (với tư cách là phu nhân của Vua Francis II). Số phận bi thảm của bà, với đầy những khúc quanh và sự kiện “văn học” đầy kịch tính, đã thu hút các nhà văn, nhà thơ của thời đại lãng mạn và các thời đại sau đó.
 
Tiểu sử
Mary sinh ngày 8 tháng 12 năm 1542 tại Cung điện Linlithgow, Scotland. Con gái của James V của Scotland và Mary của Guise. Năm 1548, Mary Stuart được gửi đến Pháp, nơi bà được nuôi dưỡng tại Hoàng cung Pháp. Năm 1558, bà kết hôn với Dauphin của nước Pháp, Francis (từ năm 1559, Vua Francis II).
 
Sau khi Vua Francis qua đời vào tháng 12 năm 1560, bà trở về Scotland (1561), nơi ảnh hưởng của những người theo đạo Calvin rất mạnh. Lúc đầu, Mary Stuart (là người theo đạo Công giáo) chung sống hòa bình với những người theo đạo Tin lành. Tuy nhiên, sau đó bà bắt đầu tích cực liên lạc với Rome và các thế lực Công giáo, cũng như với những người nổi dậy ở Ireland. Điều này khiến các lãnh chúa Scotland không hài lòng.
 
Bốn năm sau, bà kết hôn với người anh cùng cha khác mẹ của mình, Henry Stuart, Lord Darnley, và vào tháng 6 năm 1566 họ có một con trai, James. Vào ngày 10 tháng 2 năm 1567, một nhóm quý tộc do Bá tước thứ 4 của Bothwell, James Hepburn, đã bóp cổ Darnley và cho nổ tung ngôi nhà của ông.
 
Bothwell kết hôn với Mary Stuart vào ngày 15 tháng 5 năm 1567. Ông không được lòng dân chúng và cuộc hôn nhân gặp phải sự phản đối của giới quý tộc. Mùa hè năm 1567, những người theo đạo Calvin đã tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang.
 
Mary Stuart buộc phải thoái vị vì đứa con trai một tuổi của bà (sau này là Vua Scotland James VI, từ năm 1603 là Vua Anh James I). Sau một nỗ lực không thành công để giành lại ngai vàng, bà chạy trốn xuống phía nam để tìm kiếm sự bảo vệ của người em họ đầu tiên của mình, Nữ hoàng Elizabeth I của Anh.
 
Mary đã từng tuyên bố ngai vàng của Elizabeth là của riêng mình và được nhiều người Công giáo Anh coi là chủ quyền hợp pháp của nước Anh. Nhận thức được Mary là một mối đe dọa, Elizabeth đã giam Mary trong nhiều lâu đài và trang viên ở nước Anh. Sau 18 năm rưỡi bị giam giữ, Mary bị kết tội âm mưu ám sát Elizabeth vào năm 1586 và bị chặt đầu vào năm sau tại lâu đài Fotheringhay.
 
Nữ hoàng được chôn cất tại Nhà thờ chính tòa Peterborough. Năm 1612, theo lệnh của con trai bà là James, người trở thành Vua nước Anh sau cái chết của Elizabeth I, hài cốt của Mary Stuart được chuyển đến Tu viện Westminster, được chôn cất ngay gần mộ đối thủ vĩnh cửu của bà, Nữ hoàng Elizabeth I.
 
Có lẽ không một Nữ vương nào lại được chú ý trong nghệ thuật và văn học như Mary Stuart. Một số phận vinh quang nhưng đầy những bi kịch, đầy những âm mưu và tình yêu ấy không thể không làm cho các nhà văn, nhà thơ khắp thế giới quan tâm. Câu chuyện về cuộc đời của Nữ hoàng đã được rất nhiều các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà làm phim nổi tiếng xưa nay khai thác. Chúng tôi cũng chỉ mới dịch được một vài bài thơ của bà ra tiếng Việt.
 
2 bài thơ
 


GỬI NGƯỜI TÌNH BOTHWELL*
 
Vì anh tôi quên danh dự của mình –
Thứ hạnh phúc trần gian tôi có được.
Tôi trao anh cả lương tâm, quyền lực
Vì anh mà tôi bỏ lại người thân
Nơi quê mình bị người ta khinh miệt.
 
Cũng vì anh bạn bè tôi quên hết
Đi kết thân với kẻ địch của mình
Tôi hy sinh tâm hồn và ý thức
Và những gì kiêu hãnh ở trần gian
Vì yêu anh mà tôi vui lòng chết.
 
Tôi dâng hết ngai vàng và vương miện
Có thể cuối cùng anh sẽ hiểu ra
Đối với tôi quan trọng một điều là
Sống vì anh và phục tùng ngoan ngoãn.
 
Chỉ vì anh tôi đợi chờ may mắn
Và giữ gìn sức khỏe chỉ vì anh
Dành cho anh một tình yêu quên mình
Và luôn hướng tới những điều cao thượng.
__________________
*James Hepburn, Bá tước thứ 4 của Bothwell.
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur,
Ce qui nous peust seui pourvoir de bonheur.
Pour luy j'ay hasarde grandeur &; conscience,
Pour luy tous mes parens j'ay quitte &; amis,
Et tous autres respectz sont a part mis.
    
Pour luy tous mes amis j'estime moins que rien,
Et de mes ennemis je veux esperer bien.
J'ay hasafde pour luy nom &; conscience
Je veux pour luy au monde renoncer,
Je veux mourir pour Ie faire avancer.
 
Pour luy je veux recherc'ner la grandeur,
Et feray tant que de vray congnoistra
Que je n'ay bien, heur, ne contentement,
Qu'a I'obeir &; servir loyaument.
    
Pour luy j'attends toute bonne fortune,
Pour luy je veux garder sante &; vie,
Pour luy tout vertu de suivre j'ay envie,
Et sans changer me trouvera tout'une.
 
 

VIẾT Ở LÂU ĐÀI FOTHERINGHAY*
 
Ta là gì? Ta sống để làm chi?
Cái xác không hồn, vật vờ chiếc bóng
Là đối tượng của bao điều bất hạnh
Còn sống đây nhưng cái chết đang chờ.
 
Kẻ thù kia, xin gác lại hận thù
Ta bây giờ chẳng còn mơ danh vọng
Vì ta đã chịu quá nhiều đau đớn
Nỗi đau này ta nhận hết về ta.
 
Và bạn bè, những người đã yêu vì
Hãy nhớ rằng ta không còn sức nữa
Làm việc gì cho người nọ, người kia
 
Giờ chỉ mong chấm dứt khổ đau này
Để sớm từ giã cuộc đời bất hạnh
Với niềm vui nơi cực lạc ta về.
____________
*Mary viết bài thơ này trong thời gian bà bị giam giữ ở lâu đài Fotheringhay và bị chặt đầu ngay sau đó.
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
Je ne suis fors qu'un corps privé de coeur,
Une ombre vaine, un objet de malheur,
Qui n'a plus rien que de mourir envie.
 
Plus ne portez, ô ennemis, d'envie
A qui n'a plus l'esprit à la grandeur,
Ja consommé d'excessive douleur.
Votre ire en bref se verra assouvie.
 
Et vous, amis, qui m'avez tenue chère,
Souvenez-vous que sans heur, sans santé,
Je ne saurais aucun bon oeuvre faire.
 
Souhaitez donc fin de calamité
Et que ci-bas, étant assez punie,
J'aye ma part en la joie infinie.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét