John Donne (19/7/1572 – 31/3/1631) – nhà thơ Anh theo trường phái siêu hình, tác giả của thơ sonnet, thơ tình, bi ca và những lời thuyết giáo nổi tiếng, là một trong những nhà thơ lớn của Anh thế kỉ 17.
Tiểu sử:
John Donne sinh ở Bread Street, London trong một
gia đình theo đạo Thiên Chúa. Bố là một thương gia, mất khi John Donne mới lên
4 tuổi, mẹ là con gái của nhà thơ, nhà viết kịch Heywood. Trong số những người
đời trước có nhà nhân văn Thomas Moore, tác giả của “Utopia” nổi tiếng. Năm 20
tuổi John Donne vào học ở Hart Hall (ngày nay là trường Hertford College,
Oxford), sau đó học Đại học Oxford và Đại học Cambridge nhưng cả hai nơi đều
không được nhận bằng do việc những người tốt nghiệp những Đại học này phải theo
Anh giáo, trong khi John Donne là tín đồ của Thiên Chúa giáo. Sau khi nghỉ học
John Donne đi du lịch sang Ý và Tây Ban Nha. Năm 1891 vào học Lincoln’s Inn
trong 3 năm. Những năm 1596-1597 theo ngài bá tước Essex tham gia vào trận đánh
Cadiz ở Tây Ban Nha, sau đó làm thư ký cho ngài Thomas Egerton. John Donne yêu
cô Anne More, cháu của ngài Thomas Egerton và bí mật làm đám cưới, khi ngài
Egerton biết chuyện đã đuổi việc và bắt John Donne vào tù. Sau khi mãn hạn tù
John Donne cùng Anne More về thăm quê ngoại và viết tác phẩm Ignatius his Conclave mong cải thiện điều kiện khó khăn về
tài chính. Hai lần (năm 1601 và năm 1614) John Donne được bầu vào Quốc hội Anh,
trở thành ông nghị giàu có và rất đông con.
Năm 1617 Anne More mất, kể từ đây sáng tác của John Donne đượm vẻ u ám và thần bí hơn trước. John Donne mất năm 1631, trước khi chết ông còn đọc lời thuyết giáo để dùng trong lễ tang và sai người nhà vẽ chân dung đặt vào áo quan. Sau khi mất, gần 200 năm John Donne bị người đời quên lãng, chỉ đến đầu thế kỉ XX nhà thơ William Butler Yeats mới tìm thấy bậc tiền bối của mình. Thế kỉ XX John Donne là nhà thơ cổ điển thời thượng bậc nhất ở nước Anh.
Câu thuyết giáo nổi tiếng:
Năm 1617 Anne More mất, kể từ đây sáng tác của John Donne đượm vẻ u ám và thần bí hơn trước. John Donne mất năm 1631, trước khi chết ông còn đọc lời thuyết giáo để dùng trong lễ tang và sai người nhà vẽ chân dung đặt vào áo quan. Sau khi mất, gần 200 năm John Donne bị người đời quên lãng, chỉ đến đầu thế kỉ XX nhà thơ William Butler Yeats mới tìm thấy bậc tiền bối của mình. Thế kỉ XX John Donne là nhà thơ cổ điển thời thượng bậc nhất ở nước Anh.
Câu thuyết giáo nổi tiếng:
“Con người không phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa, một phẩn của tổng thể; nếu biển cuốn đi dù chỉ một hòn đất thì châu Âu sẽ trở nên ít hơn, cũng như nếu biển cuốn đi cả vùng đất mũi hay ngôi nhà của bạn anh, hay ngôi nhà của riêng anh. Cái chết của mỗi con người làm cho tôi trở thành ít lại vì tôi là một phần của nhân loại, và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai: chuông nguyện hồn anh đấy”. Những lời này của John Donne được nhà văn Ernest Hemingway dùng làm đề từ của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Chuông nguyện hồn ai”.
Tác phẩm:
– Thơ tình (Love Poems (1905)
– Thơ thần, thuyết giáo và cầu nguyện (Divine Poems, Sermons, Devotions and Prayers, 1990)
– Thơ John Donne (John Donne’s Poetry, 1991)
– Tác phẩm chính (The Major Works, 2000)
– Toàn tập thơ và tuyển văn xuôi (The Complete Poetry and Selected Prose, 2001)
– Thơ thần, thuyết giáo và cầu nguyện (Divine Poems, Sermons, Devotions and Prayers, 1990)
– Thơ John Donne (John Donne’s Poetry, 1991)
– Tác phẩm chính (The Major Works, 2000)
– Toàn tập thơ và tuyển văn xuôi (The Complete Poetry and Selected Prose, 2001)
BUỔI SÁNG
(The Good-Morrow)
Trước khi mình yêu, có phải em và anh
Có phải chưa bao giờ chúng mình xa nhau cả?
Và có phải mình đã từng đùa vui trên hoa cỏ?
Có phải hai đứa đã từng ngủ ở trong hang?
Nhưng tất cả những điều này quả đến lạ lùng.
Hễ mắt anh nhìn thấy vẻ đẹp nào như thế
Là lại khát khao, lại mơ ước về em.
Và giờ đây mỗi buổi sáng hai chúng mình
Đã không còn nhìn thấy nhau, trong nỗi sợ
Tình làm cho cả thế gian trở thành xa lạ
Căn phòng nhỏ này trở thành rộng mênh mông.
Thì cứ mặc cho những nhà thám hiểm sẽ đi tìm
Và cứ để cho họ sẽ mở ra những bến bờ xa lạ
Nhưng chỉ một thế giới này của anh và em.
Gương mặt anh trong mắt em và em trong anh
Hai con tim chân thành cùng chung nhịp đập
Còn ở đâu tìm ra hai nửa bán cầu
Mà đã lặng phía Tây, đã yên phía Bắc
Sẽ mất đi những thứ vô tình trộn lẫn vào nhau
Nhưng nếu như hai tình yêu hòa chung làm một
Thì nghĩa là chúng mình còn mãi đến nghìn sau.
The Good-Morrow
I wonder, by my troth, what thou and I
Did, till we loved? were we not weaned till then,
But sucked on country pleasures, childishly?
Or snorted we in the seven sleepers' den?
'Twas so; but this, all pleasures fancies be.
If ever any beauty I did see,
Which I desired, and got, 'twas but a dream of thee.
And now good morrow to our waking souls,
Which watch not one another out of fear;
For love all love of other sights controls,
And makes one little room an everywhere.
Let sea discovers to new worlds have gone,
Let maps to others, worlds on worlds have shown:
Let us possess one world; each hath one, and is one.
My face in thine eye, thine in mine appears,
And true plain hearts do in the faces rest;
Where can we find two better hemishperes,
Without sharp North, without declining West?
Whatever dies was not mixed equally;
If our two loves be one, or thou and I
Love so alike that none do slacken, none can die.
CON BỌ CHÉT
(The Flea)
Hãy xem kìa, con bọ chét chỉ là vớ vẩn
Nhưng ở đấy có điều mà em đã chối từ anh
Bọ chét đã hút máu của anh và máu của em
Trong bọ chét máu của hai chúng mình trộn lẫn.
Có một điều này mà hai ta cần thừa nhận
Chẳng phải lỗi lầm hay là chuyện tiết trinh
Hay xấu hổ, mà có biết bao nhiêu sung sướng
Nơi trộn lẫn máu của anh và máu của em
Điều này nhiều hơn những gì mà ta được nhận.
Em hãy đừng nghiệt ngã một cách mù quáng
Giết con bọ chét là giết chết ba cuộc đời
Dù sao thì ta đã nhận biết được điều này
Ta nhận biết chiếc giường và ngôi đền bọ chét
Mặc cha mẹ càu nhàu, mặc tin đồn thất thiệt
Ta hòa nhập ở đây, trong bọ chét này
Tội sẽ lớn vô cùng nếu em đem giết
Giết chết con bọ chét là phạm tội ba lần
Vì giết hai cuộc đời và giết thánh thần.
Nhưng dù sao thì rồi những móng tay em
Đã làm cho dòng máu vô tội kia đổ xuống
Máu của bọ chét thì đâu có gì lỗi lầm
Chỉ vì những giọt máu mà bọ chét kia đã uống?
Từ những mất mát kia em vốn coi là nhỏ mọn
Không có gì ảnh hưởng đến em và đến anh
Thì thôi, nếu đã không có gì ghê gớm
Trong cái lần hòa nhập của em và anh
Thì cái chết của bọ chét kia… chỉ là vớ vẩn.
The Flea
Mark but this flea, and mark in this,
How little that which thou deniest me is;
It suck'd me first, and now sucks thee,
And in this flea our two bloods mingled be.
Thou know'st that this cannot be said
A sin, nor shame, nor loss of maidenhead;
Yet this enjoys before it woo,
And pamper'd swells with one blood made of two;
And this, alas ! is more than we would do.
O stay, three lives in one flea spare,
Where we almost, yea, more than married are.
This flea is you and I, and this
Our marriage bed, and marriage temple is.
Though parents grudge, and you, we're met,
And cloister'd in these living walls of jet.
Though use make you apt to kill me,
Let not to that self-murder added be,
And sacrilege, three sins in killing three.
Cruel and sudden, hast thou since
Purpled thy nail in blood of innocence?
Wherein could this flea guilty be,
Except in that drop which it suck'd from thee?
Yet thou triumph'st, and say'st that thou
Find'st not thyself nor me the weaker now.
'Tis true; then learn how false fears be;
Just so much honour, when thou yield'st to me,
Will waste, as this flea's death took life from thee.
(The Flea)
Hãy xem kìa, con bọ chét chỉ là vớ vẩn
Nhưng ở đấy có điều mà em đã chối từ anh
Bọ chét đã hút máu của anh và máu của em
Trong bọ chét máu của hai chúng mình trộn lẫn.
Có một điều này mà hai ta cần thừa nhận
Chẳng phải lỗi lầm hay là chuyện tiết trinh
Hay xấu hổ, mà có biết bao nhiêu sung sướng
Nơi trộn lẫn máu của anh và máu của em
Điều này nhiều hơn những gì mà ta được nhận.
Em hãy đừng nghiệt ngã một cách mù quáng
Giết con bọ chét là giết chết ba cuộc đời
Dù sao thì ta đã nhận biết được điều này
Ta nhận biết chiếc giường và ngôi đền bọ chét
Mặc cha mẹ càu nhàu, mặc tin đồn thất thiệt
Ta hòa nhập ở đây, trong bọ chét này
Tội sẽ lớn vô cùng nếu em đem giết
Giết chết con bọ chét là phạm tội ba lần
Vì giết hai cuộc đời và giết thánh thần.
Nhưng dù sao thì rồi những móng tay em
Đã làm cho dòng máu vô tội kia đổ xuống
Máu của bọ chét thì đâu có gì lỗi lầm
Chỉ vì những giọt máu mà bọ chét kia đã uống?
Từ những mất mát kia em vốn coi là nhỏ mọn
Không có gì ảnh hưởng đến em và đến anh
Thì thôi, nếu đã không có gì ghê gớm
Trong cái lần hòa nhập của em và anh
Thì cái chết của bọ chét kia… chỉ là vớ vẩn.
The Flea
Mark but this flea, and mark in this,
How little that which thou deniest me is;
It suck'd me first, and now sucks thee,
And in this flea our two bloods mingled be.
Thou know'st that this cannot be said
A sin, nor shame, nor loss of maidenhead;
Yet this enjoys before it woo,
And pamper'd swells with one blood made of two;
And this, alas ! is more than we would do.
O stay, three lives in one flea spare,
Where we almost, yea, more than married are.
This flea is you and I, and this
Our marriage bed, and marriage temple is.
Though parents grudge, and you, we're met,
And cloister'd in these living walls of jet.
Though use make you apt to kill me,
Let not to that self-murder added be,
And sacrilege, three sins in killing three.
Cruel and sudden, hast thou since
Purpled thy nail in blood of innocence?
Wherein could this flea guilty be,
Except in that drop which it suck'd from thee?
Yet thou triumph'st, and say'st that thou
Find'st not thyself nor me the weaker now.
'Tis true; then learn how false fears be;
Just so much honour, when thou yield'st to me,
Will waste, as this flea's death took life from thee.
CÁC NHÀ THƠ LIÊN HIỆP ANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét