Thứ Ba, 24 tháng 1, 2017

Thơ Robert Graves


Robert von Ranke Graves (24/7/1895 – 7 /12/1985) là nhà ngôn ngữ học, nhà văn, nhà thơ Anh, tác giả của 140 đầu sách.

Tiểu sử:
Robert Graves sinh ở Winbledon, London trong gia đình một nhà thơ gốc Ireland, mẹ là người gốc Đức. Robert Graves học ở King's College School và Charterhouse School, sau đó học Đại học Oxford. Những năm Thế chiến I ông tình nguyện ra mặt trận. Từ năm 1921 ông thường xuyên sống ở đảo Majorca. Robert Graves từng là giảng viên của các trường Đại học Cambridge và Đại học Oxford. Số lượng tác phẩm của Robert Graves rất đồ sộ, gồm văn xuôi, thơ, phê bình, các tập sách chuyên khảo… Ông là một nhà thơ viết nhiều thơ tình và thành công trong thể loại này. Riêng thơ đã có tới hơn 30 tập. Ngoài sáng tác, ông còn dịch nhiều nhà thơ Hy Lạp cổ ra tiếng Anh. Robert Graves được tặng rất nhiều giải thưởng, đáng kể nhất là Huy chương vàng Hoàng gia năm 1968. Ông mất năm 1985.

Tác phẩm:

Thơ:
*Over the Brazier. London: The Poetry Bookshop, 1916; *Goliath and David. London: Chiswick Press, 1917. 
*Fairies and Fusiliers. London: William Heinemann,1917; 
*Treasure Box. London: Chiswick Press, 1920. 
*Country Sentiment. London: Martin Secker, 1920; 
*The Pier-Glass. London: Martin Secker, 1921; 
*Whipperginny. London: William Heinemann, 1923; 
*The Feather Bed. Richmond, Surrey: Hogarth Press, 1923. 
*Mock Beggar Hall. London: Hogarth Press, 1924. 
*Welchmans Hose. London: The Fleuron, 1925. 
*Poems. London: Ernest Benn, 1925. 
.........................................

..........................................

Văn xuôi:
*My Head! My Head!. London: Sucker, 1925; Alfred. A. Knopf, New York, 1925
*The Shout. London: Mathews & Marrot, 1929. 
*No Decency Left (with Laura Riding) (as Barbara Rich). London: Jonathan Cape, 1932. 
*The Real David Copperfield. London: Arthur Barker, 1933; 
.....................................

.......................................

Các thể loại khác:
*On English Poetry. New York: Alfred. A. Knopf, 1922; London: Heinemann, 1922. 
*The Meaning of Dreams. London: Cecil Palmer, 1924; New York: Greenberg, 1925. 
*Poetic Unreason and Other Studies. London: Cecil Palmer, 1925. 
*Contemporary Techniques of Poetry: A Political Analogy. London: Hogarth Press, 1925. 
*Another Future of Poetry. London: Hogarth Press, 1926. 
*Impenetrability or The Proper Habit of English. London: Hogarth Press, 1927. 
*A Survey of Modernist Poetry (with Laura Riding). London: William Heinemann, 1927; 
*Lawrence and the Arabs. London: Jonathan Cape, 1927; 
*A Pamphlet Against Anthologies (with Laura Riding). London: Jonathan Cape, 1928; *The Long Weekend (with Alan Hodge). London: Faber & Faber, 1940; 
.......................................

.......................................



CUỘC CHƠI KẾT THÚC

(End of play)

Đã kết thúc cuộc chơi, và muôn thuở
Ta, mọi người vẫn thú nhận đôi khi
Hoặc nhìn vào bầu trời xanh xưa cũ
Một màu xanh như áo của Mary.

Ta ngỡ rằng đời vẫn cứ nhởn nhơ
Và thơ thẩn giữa đất trời mùa hạ
Ánh sáng chói chang, màu xanh hoa cỏ
Và lòng tin hạ cố từ trời kia.

Cứ ngỡ: gương và tiếng vọng nghìn thu
Hoà nhập với tầm nhìn và tiếng động
Tiệng gọi lòng tin không còn can đảm
Vang lên như lời than vãn: “Tôi mù!”

Sao người đời than khóc thật vu vơ
Chẳng khác gì khóc không còn răng sữa
Có những kẻ khóc nức nở và quì
Đầu gối, kêu vẻ sầu bi của Chúa.

Ta đã thôi không gian lận, dối lừa
Đã không còn nghĩ suy như ngày cũ
Trong rừng rậm hổ báo và sư tử
Vẫn rập rình chờ nhảy xổ vào ta.

Và đam mê không dối gian mời mọc
Vào điệu nhảy xưa vô tội những ai
Từ cái chạm luống cuống của bàn tay
Đến cái ôm choàng ngất ngây lồng ngực.

Nhưng tình yêu vẫn sống – như vết khắc
Dưới lưỡi rìu của đao phủ tang thương
Và xác thân bất động ở trong gương
Những kỷ niệm xưa vẫn nhìn thấy hết.


End of Play

 We have reached the end of pastime, for always,
  Ourselves and everyone, though few confess it
  Or see the sky other than, as of old,
  A foolish smiling Mary-mantle blue;

  Though life may still seem to dawdle golden
  In some June landscape among giant flowers,
  The grass to shine as cruelly green as ever,
  Faith to descend in a chariot from the sky –

  May seem only: a mirror and an echo
  Mediate henceforth with vision and sound.
  The cry of faith, no longer mettlesome,
  Sounds as a blind man’s pitiful plea of ‘blind’.

  We have at last ceased idling, which to regret
  Were as shallow as to ask our milk-teeth back;
  As many forthwith do, and on their knees
  Call lugubriously upon chaste Christ.

  We tell no lies now, at last cannot be
  The rogues we were – so evilly linked in sense
  With what we scrutinized that lion or tiger
  Could leap from every copse, strike and devour us.

  No more shall love in hypocritic pomp
  Conduct its innocents through a dance of shame,
  From timid touching of gloved fingers
  To frantic laceration of naked breasts.

  Yet love survives, the word carved on a sill
  Under antique dread of the headsman’s axe;
  It is the echoing mind, as in the mirror
  We stare on our dazed trunks at the block kneeling.

VƯƠNG QUỐC BÍ ẨN
(The secret land)

Ở mỗi một người phụ nữ hoàng gia
Có vương quốc bí ẩn, còn hiện thực
Hơn cõi trần màu xám ở quanh ta.

Giờ nửa đêm, khi ngôi nhà lặng lẽ
Nàng bỏ sách, thôi cuốn chỉ xe tơ
Rồi đi vào vương quốc bí ẩn nọ.

Nàng chau mày rồi kéo chắn song
Giữa những cây bạch dương cao lớn
Và nàng đưa ra đòi hỏi của mình.

Chạy, hoặc bay, hoặc ngồi trên ngựa phóng
(Ngựa, tất nhiên, là tự đến với nàng)
Và đi về nơi mà nàng muốn đến.

Nàng làm cho hoa cỏ phải lớn lên
Gọi hoa huệ nở hoa từ những nụ
Đưa thức ăn cho cá tự tay mình.

Trồng những đồi cây, xây những ngôi làng
Thung lũng vui nhờ những dòng suối mát
Nước lạnh đổ vào hồ đất bao quanh.

Tôi chưa bao giờ dám đi hỏi nàng
Như quyền lực mà nàng thơ có được
Hay về địa lý, về suối về sông.

Tôi không lẻn vào giữa rừng bạch dương
Và không gác chân ngôi lên trên cổng
Rồi ngó nhìn vào màn sương mơ màng.

Có phải vì thế mà nàng hứa hẹn
Khi tôi qua đời nàng tặng cho tôi
Một túp lều ở gần bên cung điện
Của riêng nàng, luôn có những hoa tươi
Nơi mà sau này chúng tôi sẽ đến.


The Secret Land

Every woman of true royalty owns
A secret land more real to her
Than this pale outer world:

At midnight when the house falls quiet
She lays aside needle or book
And visits it unseen.

Shutting her eyes, she improvises
A five-barred gate among tall birches,
Vaults over, takes possession.

Then runs, or flies, or mounts a horse
(A horse will canter up to greet her)
And travels where she will;

Can make grass grow, coax lilies up
From bud to blossom as she watches,
Lets fish eat out of her palm.

Has founded villages, planted groves
And hollowed valleys for brooks running
Cool to a land-locked bay.

I never dared question my muse
About the government of her queendom
Or its geography,

Nor followed her between those birches,
Setting one leg astride the gate,
Spying into the mist.

Yet she has pledged me, when I die,
A lodge beneath her private palace
In a level clearing of the wood
Where gentians grow and gillyflowers
And sometimes we may meet.



HỒNG NGỌC VÀ THẠCH ANH TÍM 
(Ruby and Amethyst) 

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Luôn chung thủy với người chồng sung sức.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Nhưng chỉ thủy chung với chính mình thôi.

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Luôn trung thành với những gì thề thốt.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Nhưng không bao giờ thề thốt cùng ai.

Một phụ nữ đeo hồng ngọc trên mình
Nhưng với niềm vui vô cùng giản dị
Để mắt người lạ nhìn vào chỉ nghĩ
Là thủy tinh nên chẳng ngắm gần hơn. 

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Trong thành phố là người cao quí nhất.
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Không cần một ai khen ngợi công khai. 

Người này mang thạch anh tím trên người
Và trong đó có khu vườn rộng lớn
Mắt bạn có thể hàng giờ thơ thẩn
Và lang thang để đánh mất mình thôi. 

Trên đầu nàng chim én luôn bay lượn
Có vẻ như nàng vô thủy vô chung
Và vẻ nữ tính để hiểu đến cùng
Thì đàn ông không thể nào thấu tận.

Hai phụ nữ – một tốt như bánh mỳ
Chịu đựng tất cả tiết trời khắc nghiệt
Một người khác – hiếm như loài mộc dược
Mọi tiết trời ở trong chính nàng thôi. 

Ruby and Amethyst

Two women: one as good as bread, 
Bound to a sturdy husband.
Two women: one as rare as myrrh, 
Bound only to herself.

Two women: one as good as bread, 
Faithful to every promise.
Two women: one as rare as myrrh, 
Who never pledges faith.

The one a flawless ruby wears, 
But with such innocent pleasure, 
A stranger's eye might think it glass
And take no closer look.

Two women: one as good as bread, 
The noblest of the city.
Two women: one as rare as myrrh, 
Who needs no public praise.

The pale rose-amethyst on her breast
Has such a garden in it
Your eye could wonder there for hours, 
And wonder, and be lost.

About her head a swallow wheels
Noe ever breaks the circuit: 
Glory and awe of womanhood
Still undeclared to man.

Two women: one as good as bread, 
Resistant to all weathers,
Two women: one as rare as myrrh,
Her weather still her own.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét