Wystan Hugh Auden (21 tháng
2 năm 1907 – 29 tháng 9 năm 1973) – nhà thơ Mỹ và Anh, sinh ra và lớn lên ở
Anh, trở thành nhà thơ nổi tiếng của Anh, năm 1939 sang Mỹ. Ông là người có sự ảnh
hưởng rất lớn đến văn học Anh-Mỹ, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ
XX.
Tiểu sử
Wystan Hugh Auden sinh ở York, Anh. Từ nhỏ được học ở trường St. Edmund's School (Hindhead), Surrey, sau đó, ở trường Gresham's School, nổi tiếng với việc giáo dục kỷ luật nghiêm khắc và gắn liền với giáo dục tôn giáo. Ở trường này, Auden nhận ra rằng mình là người đồng tính nên từ chối việc học các môn học tôn giáo. Auden tiếp tục học thơ cổ ở Đại học Oxford và bắt đầu hoạt động văn học từ ngày còn là sinh viên. Năm 1930 in tập thơ đầu tiên Thơ (Poems), chịu ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của Karl Marx, Sigmund Freud, Charles Darwin, phê phán xã hội tư sản. Thập niên 1930, Auden sang Đức, sống ở Berlin một số năm, dạy học và sáng tác. Năm 1936 in tập thơ Hãy xem, Người xa lạ! (Look, Stranger!), kết hôn với con gái nhà văn Thomas Mann. Thời gian tiếp đó ông đi du lịch nhiều nơi cùng với Christopher Isherwood, và quyết định sang sống ở Mỹ. Việc ông di cư sang Mỹ trước thềm Thế chiến II, khiến đa số người dân Anh coi như một hành động phản bội, tuy vậy, đối với Auden là vì những lý do cá nhân.
Sang Mỹ năm 1939, ông dạy học ở nhiều trường Đại học và tiếp tục sáng
tác nhiều tác phẩm nổi tiếng. Nhiều tác phẩm sáng tác thời kỳ trước cũng được tập
hợp in vào năm 1945. Năm 1948 ông được trao giải Pulitzer, năm 1954 được tặng
giải Bollinger, và năm 1967 được tặng huân chương Văn học. Wystan Hugh Auden mất
năm 1973 ở Vienna.
Tác phẩm chính
Wystan Hugh Auden sinh ở York, Anh. Từ nhỏ được học ở trường St. Edmund's School (Hindhead), Surrey, sau đó, ở trường Gresham's School, nổi tiếng với việc giáo dục kỷ luật nghiêm khắc và gắn liền với giáo dục tôn giáo. Ở trường này, Auden nhận ra rằng mình là người đồng tính nên từ chối việc học các môn học tôn giáo. Auden tiếp tục học thơ cổ ở Đại học Oxford và bắt đầu hoạt động văn học từ ngày còn là sinh viên. Năm 1930 in tập thơ đầu tiên Thơ (Poems), chịu ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của Karl Marx, Sigmund Freud, Charles Darwin, phê phán xã hội tư sản. Thập niên 1930, Auden sang Đức, sống ở Berlin một số năm, dạy học và sáng tác. Năm 1936 in tập thơ Hãy xem, Người xa lạ! (Look, Stranger!), kết hôn với con gái nhà văn Thomas Mann. Thời gian tiếp đó ông đi du lịch nhiều nơi cùng với Christopher Isherwood, và quyết định sang sống ở Mỹ. Việc ông di cư sang Mỹ trước thềm Thế chiến II, khiến đa số người dân Anh coi như một hành động phản bội, tuy vậy, đối với Auden là vì những lý do cá nhân.
*Thơ (Poems, 1930)
*Vũ điệu của cái chết (The Dance of Death, 1933)
*Trèo lên F.6 (The Ascent of F.6, 1936)
*Hãy xem, người xa lạ! (Look, Stranger!, 1936)
*Tây Ban Nha (Spain, 1937)
*Hành trình ra trận (Journey to a War, 1939)
*Tuổi lo âu (The Age of Anxiety, 1947)
*Lá chắn của Achilles (The Shield of Achilles, 1955)
*Dâng tặng Clio (Homage to Clio, 1960)
*Tuyển tập thơ (Collected Longer Poems, 1969)
*Tuyển tập thơ (Collected Shorter Poems 1927-1957, 1966)
*Thơ giai đoạn sau (Last Poems, 1974)
*Cám ơn sương mù (Thank You, Fog, 1974)
*Tuyển tập thơ (Collected Poems, 1976, new edns. 1991, 2007)
Phải giải quyết một vấn đề tồn tại:
Đau khổ với tình hay với chính anh.
Và cái tôi kéo theo điều khao khát
Khi thức giấc sẽ trở lại chính anh.
Nhìn thấy không phải mình trong hồ nước
Nên không thể nào có được lặng yên.
Luôn gây trò và nghĩ suy đơn giản
Tiếp nhận cuộc đời như nó tự thân.
Chỉ là dối gian, chỉ là đau khổ
Càng yêu nhiều, lòng càng lắm cô đơn.
Cái tôi thứ hai mong muốn cho mình
Nhưng hãy nhớ một điều rất giản dị:
Không bao giờ ta có được chính mình.
About the difference between the ache
Of being with his love, and being alone:
That really stirs the senses, when awake,
Appears a simulacrum of his own.
He cannot join his image in the lake
So long as he assumes he is alone.
Are always up to mischief, though, and take
The universe for granted as their own.
To think of love as a subjective fake;
The more they love, the more they feel alone.
Why every lover has a wish to make
Some kind of otherness his own:
Perhaps, in fact, we never are alone.
(Mất tháng giêng năm 1939)
Anh ra đi giữa băng giá mùa đông
Sông đóng băng, những phi trường hoang vắng
Tuyết trắng rơi, phủ đầy lên bức tượng
Rót xuống miệng của ngày một giọt thủy ngân
Dường như mọi thiết bị đo đếm cũng đồng tình
Ngày anh ra đi tối tăm và giá lạnh.
Chó sói hãy còn chạy giữa rừng xanh.
Dòng sông quê không còn mê bờ đẹp
Và ngôn ngữ của đám tang
Ngăn cách thơ anh và cái chết.
Ngày của tin đồn và những cô y tá
Đặt lên thi thể vẻ không yên
Và hoang vu cả quãng trường lý trí.
Vùng ngoại ô bao trùm lên lặng lẽ
Những cảm giác dường như lặng ngừng
Anh trở thành người cho đời ngưỡng mộ.
Anh mang cho những cảm giác không quen
Để hạnh phúc trong cõi khác
Và xử phạt theo bộ luật của lương tâm
Lời của người đã chết
Cùng với người đang sống ở trần gian.
Nơi những người môi giới om sòm trên sàn chứng khoán
Nơi những kẻ nghèo khổ sở vì nghèo túng
Và mỗi người đều có tự do của mình
Nhưng cái ngày này không một ai hờ hững
Như ý nghĩ về một ngày không bình thường
Dường như mọi thiết bị đo đếm cũng đồng tình
Ngày anh ra đi tối tăm và giá lạnh.
(d. January 1939)
The brooks were frozen, the air-ports almost deserted?
And snow disfigured the public statues;
The mercury sank in the mouth of the dying day.
O all the instruments agree
The day of his death was a dark cold day.
The wolves ran on through the evergreen forests,
The peasant river was untempted by the fashionable quays;
By mourning tongues
The death of the poet was kept from his poems.
An afternoon of nurses and rumours;
The provinces of his body revolted,
The squares of his mind were empty,
Silence invaded the suburbs,
The current of his feeling failed: he became his admirers.
And wholly given over to unfamiliar affections;
To find his happiness in another kind of wood
And be punished under a foreign code of conscience.
The words of a dead man
Are modified in the guts of the living.
When the brokers are roaring like beasts on the floor of the Bourse,
And the poor have the sufferings to which they are fairly accustomed,
And each in the cell of himself is almost convinced of his freedom;
A few thousand will think of this day
As one thinks of a day when one did something slightly unusual.
O all the instruments agree
The day of his death was a dark cold day.
Sự thờ ơ – dù tôi về địa ngục
Nhưng sự bàng quan có ở trên đời
Không đáng sợ, cả thú cũng như người.
Để chúng ta không còn quay về được?
Nếu như tình cảm không thể cân bằng
Thì hãy để cho tôi yêu nhiều hơn.
Dù với ngôi sao thế nào cũng được
Và tôi cũng không thể nói như vầy:
Không có sao, tôi không phải là tôi.
Khi đó chỉ còn bóng đêm dày đặc
Tôi sẽ quen nhìn bầu trời trống không
Dù điều này cần một ít thời gian.
That, for all they care, I can go to hell,
But on earth indifference is the least
We have to dread from man or beast.
With a passion for us we could not return?
If equal affection cannot be,
Let the more loving one be me.
Of stars that do not give a damn,
I cannot, now I see them, say
I missed one terribly all day.
I should learn to look at an empty sky
And feel its total dark sublime,
Though this might take me a little time.
Biết cái giá mà chúng ta phải trả
Nếu anh biết thì đã nói cùng em.
Ta vấp váp – khi nhạc công chơi nhạc
Mọi thứ đều sắp đặt bởi thời gian.
Anh yêu em hơn những gì đã nói
Mọi thứ đều sắp đặt bởi thời gian.
Và tại sao chiếc lá vàng rụng xuống
Mọi thứ đều sắp đặt bởi thời gian.
Và ánh nhìn quả là mong ở lại
Nếu biết thì anh đã nói cùng em.
Những dòng suối và lính đều bỏ chạy
Mọi thứ đều sắp đặt bởi thời gian?
Nếu anh biết thì với em đã nói.
Time only knows the price we have to pay;
If I could tell you I would let you know.
If we should stumble when musicians play,
Time will say nothing but I told you so.
Because I love you more than I can say,
If I could tell you I would let you know.
There must be reasons why the leaves decay;
Time will say nothing but I told you so.
The vision seriously intends to stay;
If I could tell you I would let you know.
And all the brooks and soldiers run away;
Will Time say nothing but I told you so?
If I could tell you I would let you know.
Thơ hắn làm ra mọi người dễ hiểu
Hắn biết sự ngu muội như bàn tay
Hắn quan tâm những binh đoàn, hạm đội
Khi hắn cười, nghị sĩ cười nắc nẻ
Khi hắn khóc, trẻ ngoài phố chết đầy.
And the poetry he invented was easy to understand;
He knew human folly like the back of his hand,
And was greatly interested in armies and fleets;
When he laughed, respectable senators burst with laughter,
And when he cried the little children died in the streets.
Ngăn chó sủa bằng cách ném cục xương
Thôi đánh trống, ngưng tiếng dương cầm
Khiêng quan tài để người ta đến vái.
Vẽ lên trời dòng chữ Anh Đi Rồi
Buộc băng tang quanh cổ trắng bồ câu
Và găng đen đeo vào cho cảnh sát.
Là tuần làm việc, chủ nhật nghỉ ngơi
Là trưa, tối, là lời, là khúc hát
Là tình yêu, tôi ngỡ, đến muôn đời.
Dỡ mặt trời và đóng gói mặt trăng
Tát cạn bể và chặt hết cây rừng
Bởi giờ đây chẳng còn gì tốt đẹp.
Prevent the dog from barking with a juicy bone,
Silence the pianos and with muffled drum
Bring out the coffin, let the mourners come.
Scribbling on the sky the message He is Dead.
Put crepe bows round the white necks of the public doves,
Let the traffic policemen wear black cotton gloves.
My working week and my Sunday rest,
My noon, my midnight, my talk, my song;
I thought that love would last forever: I was wrong.
Pack up the moon and dismantle the sun,
Pour away the ocean and sweep up the woods;
For nothing now can ever come to any good.
thanks, nice article. visit may bloga and drop a comment below and share your opinion.
Trả lờiXóa