Gilbert Keith Chesterton (29
tháng 5 năm 1874 – 14 tháng 6 năm 1936) – nhà văn, nhà thơ, nhà triết học, nhà
hùng biện người Anh. Ông thường xuyên ký trong các tác phẩm của mình bằng tên
viết tắt G. K. Chesterton. George Bernard Shaw gọi ông là “một thiên tài khổng
lồ”.
Tiểu sử
Gilbert Keith Chesterton sinh tại tại Campden Hill, Kensington, Luân Đôn. Chesterton được học tại Trường St Paul, sau đó theo học tại Trường Nghệ thuật Slade để trở thành họa sĩ minh họa. Ông cũng tham gia các khóa học văn học tại trường này nhưng không tốt nghiêp.
Năm 1896 Gilbert nhận việc tại một nhà xuất bản, ông làm việc ở đây
trong sáu năm tiếp theo và viết phê bình các tác phẩm văn học. Năm 1901 nhà văn
kết hôn với một cô gái tên là Frances Blogg, người mà ông chung sống cho đến hết
đời.
Năm 1902, ông bắt đầu viết chuyên mục văn học của riêng mình trên tờ
“Daily News” và ba năm sau chuyển sang tờ “The Illustrated London News”. Tác phẩm
nghiêm túc đầu tiên của ông là “Robert Browning” xuất bản năm 1903 được cả độc
giả và giới phê bình đón nhận nồng nhiệt. Tình bạn với Bernard Shaw và Herbert
George Wells càng làm tăng thêm xung lực cho sáng tạo của nhà văn. Gilbert trở
nên nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ các câu chuyện trinh thám của mình với
nhân vật chính là Cha Brown (Father Brown).
Trong khoảng thời gian từ năm 1914 đến năm 1915, Chesterton bị ốm rất nặng,
điều này ảnh hưởng tiêu cực đến công việc của ông. Năm 1918 anh trai của nhà
văn qua đời cũng ảnh hưởng không ít. Năm 1921 ông đến thăm Hoa Kỳ, Ý, Ba Lan và
đọc các bài giảng của mình.
Các bài viết của Chesterton luôn thể hiện sự hóm hỉnh và hài hước. Ông
sử dụng nghịch lý để bình luận nghiêm túc về thế giới, về các chính phủ, về
chính trị, kinh tế, triết học, thần học, và nhiều chủ đề khác.
Ông đã dành những năm cuối cùng của mình để viết sách và hỗ trợ cho tờ
báo mà người anh trai để lại. Tổng cộng trong suốt cuộc đời của mình,
Chesterton đã viết hơn 4.000 bài luận, hơn 200 câu chuyện, hàng trăm bài thơ và
khoảng 80 cuốn sách.
Gilbert Keith Chesterton đột ngột qua đời ngày 14 tháng 6 năm 1936 tại
nhà riêng, nơi ông sống cùng vợ và cô con gái nuôi. Ông được chôn cất tại nghĩa trang
Beaconsfield.
2 bài thơ
KHÚC BI THƯƠNG Ở NGHĨA ĐỊA LÀNG QUÊ
Những người vì nước Anh
Có mộ ở quê mình
Trên thập ác bay lượn
Chim từ khắp nước Anh.
Những người lính trung thành
Chiến đấu vì nước Anh
Than ôi, mộ của họ
Nằm ở xa nước Anh.
Còn những kẻ cầm quyền
Đang cai trị nước Anh
Than ôi, mộ cho họ
Chưa đào ở nước Anh.
Elegy in a Country Churchyard
The men that worked for England
They have their graves at home:
And bees and birds of England
About the cross can roam.
But they that fought for England,
Following a falling star,
Alas, alas for England
They have their graves afar.
And they that rule in England,
In stately conclave met,
Alas, alas for England,
They have no graves as yet.
CON LỪA
Khi cá bay và rừng đi bộ
Những quả sung mọc ở trên gai
Khi mặt trăng giống như máu đỏ
Ngày đó tôi sinh ra trên đời.
Cái đầu và tiếng kêu quái dị
Đôi tai như đôi cánh sai lầm
Và nhại theo bước đi của quỉ
Đáng buồn trên bốn cái chân.
Tôi như kẻ ngoài vòng pháp luật
Mang trong mình bí ẩn vĩnh hằng
Dù bị bỏ đói hay roi quất
Vẫn giữ nguyên bí mật của mình.
Kẻ ngu ngốc làm sao hiểu nổi*
Những tiếng kêu hoan hỉ vui mừng
Của cả đám đông đang quỳ lạy
Và những lá cọ dưới bàn chân.
_____________
*Khổ thơ này gợi nhớ ngày Chúa nhật Lễ Lá, khi Chúa Giê-su cưỡi con lừa đi vào thành Jerusalem.
The Donkey
When fishes flew and forests walked
And figs grew upon thorn,
Some moment when the moon was blood,
Then surely I was born;
With monstrous head and sickening cry
And ears like errant wings,
The devil's walking parody
On all four-footed things.
The tattered outlaw of the earth,
Of ancient crooked will;
Starve, scourge, deride me: I am dumb,
I keep my secret still.
Fools! For I also had my hour;
One far fierce hour and sweet:
There was a shout about my ears,
And palms before my feet.
Gilbert Keith Chesterton sinh tại tại Campden Hill, Kensington, Luân Đôn. Chesterton được học tại Trường St Paul, sau đó theo học tại Trường Nghệ thuật Slade để trở thành họa sĩ minh họa. Ông cũng tham gia các khóa học văn học tại trường này nhưng không tốt nghiêp.
Có mộ ở quê mình
Trên thập ác bay lượn
Chim từ khắp nước Anh.
Chiến đấu vì nước Anh
Than ôi, mộ của họ
Nằm ở xa nước Anh.
Đang cai trị nước Anh
Than ôi, mộ cho họ
Chưa đào ở nước Anh.
They have their graves at home:
And bees and birds of England
About the cross can roam.
Following a falling star,
Alas, alas for England
They have their graves afar.
In stately conclave met,
Alas, alas for England,
They have no graves as yet.
Những quả sung mọc ở trên gai
Khi mặt trăng giống như máu đỏ
Ngày đó tôi sinh ra trên đời.
Đôi tai như đôi cánh sai lầm
Và nhại theo bước đi của quỉ
Đáng buồn trên bốn cái chân.
Mang trong mình bí ẩn vĩnh hằng
Dù bị bỏ đói hay roi quất
Vẫn giữ nguyên bí mật của mình.
Những tiếng kêu hoan hỉ vui mừng
Của cả đám đông đang quỳ lạy
Và những lá cọ dưới bàn chân.
_____________
*Khổ thơ này gợi nhớ ngày Chúa nhật Lễ Lá, khi Chúa Giê-su cưỡi con lừa đi vào thành Jerusalem.
And figs grew upon thorn,
Some moment when the moon was blood,
Then surely I was born;
And ears like errant wings,
The devil's walking parody
On all four-footed things.
Of ancient crooked will;
Starve, scourge, deride me: I am dumb,
I keep my secret still.
One far fierce hour and sweet:
There was a shout about my ears,
And palms before my feet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét