Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

Thơ Alfred Austin

 


Alfred Austin (30 tháng 5 năm 1835 – 2 tháng 6 năm 1913) – nhà thơ, nhà văn Anh, người được bổ nhiệm làm “Nhà thơ Hoàng gia” (Poet Laureate) năm 1896, sau cái chết của nhà thơ Alfred Tennyson.
 
Tiểu sử
Alfred Austin sinh ở Headingley, gần Leeds ngày 30 tháng 5 năm 1835 trong một gia đình Công giáo La Mã. Cha, Joseph Austin, là một thương gia ở Leeds, mẹ là em gái của kỹ sư Joseph Locke, Nghị viên của Honiton. Ông học tại các trường Cao đẳng Stonyhurst và Oscott, tốt nghiệp Đại học London năm 1853. Ông trở thành luật sư vào năm 1857 nhưng sau khi thừa kế một gia tài từ người chú, ông đã từ bỏ sự nghiệp luật sư của mình cho văn học.
 
Năm 1870 ông in cuốn “The Poetry of the Period” gồm những phê bình nhắm vào Alfred Tennyson, Robert Browning, Matthew Arnold và Algernon Charles Swinburne. Cuốn sách đã gây ra rất nhiều sự chỉ trích. Năm 1881, Austin trở lại làm thơ, viết bi kịch “Savonarola”, tiếp đến là các tập thơ và kịch: “Độc thoại” (Soliloquies, 1882), “Hoàng tử Lucifer” (Prince Lucifer, 1887), “Sự biến đổi của Winckelmann” (The Conversion of Winckelmann, 1897), v.v… 
 
Tôn trọng các quan điểm bảo thủ trong chính trị, ông là biên tập viên của tạp chí “The National Review” trong một số năm, ông viết các bài xã luận cho tờ “The Standard”. Sau cái chết của Tennyson vào năm 1892, không một nhà thơ đương đại nào có thể nhận danh hiệu vinh dự “Nhà thơ Giải thưởng” (hay Nhà thơ Hoàng gia – Poet Laureate), ngoại trừ Swinburne và William Morris, những người không được xem xét vì những lý do khác. Trong nhiều năm, người đoạt giải “Nhà thơ Hoàng gia” không được bổ nhiệm. Một số nhà thơ đã nộp đơn cho vị trí này nhưng cuối cùng Austin đã được chọn vào năm 1896 sau khi Morris từ chối. Là một nhà thơ đoạt giải, các tác phẩm của ông dành cho một số sự kiện nhất định đã bị chỉ trích vì sự thù địch, chẳng hạn như bài thơ viết năm 1896 ca ngợi Jameson Reid.
 
Thơ và văn xuôi hay nhất của Austin luôn có một tình yêu thiên nhiên chân thành. Năm 1903, vở kịch “Trận Flodden” (Flodden Field) của Austin được dàn dựng tại Nhà hát Hoàng gia ở London.
 
Austin qua đời không rõ nguyên nhân tại Swinford Old Manor, Hothfield, gần Ashford, Kent, nơi ông đã bị ốm một thời gian trước đó.
 
3 bài thơ
 


BA NGÔI CỦA TÌNH YÊU
 
Ta gọi tâm hồn, thể xác và trái tim
Trong tình yêu – đấy là ba trong một
Chúng khác nhau, nhưng không hề tách biệt
Không xấu hổ với tình cảm của mình
Kết hợp chúng như lửa, than và nhiệt.
 
Không phải tình, nếu ai trao thể xác
Mà thiếu trái tim, hoặc ai đó trao hồn
Mà chằng trao thân. Tình là kết hợp
Tình cao như trời, tình sâu như vực
Rộng như không khí, như cả hành tinh.
 
Love's Trinity
 
Soul, heart, and body, we thus singly name,
Are not in love divisible and distinct,
But each with each inseparably link'd.
One is not honour, and the other shame,
But burn as closely fused as fuel, heat, and flame.
 
They do not love who give the body and keep
The heart ungiven; nor they who yield the soul,
And guard the body. Love doth give the whole;
Its range being high as heaven, as ocean deep,
Wide as the realms of air or planet's curving sweep.
 
 


SỰ MÙ QUÁNG CỦA TÌNH YÊU
 
Giờ tôi hiểu rằng tình tôi mù quáng
Không nhìn ra vẻ đẹp ở trần gian
Không ánh sáng, không đời, không hy vọng
Không niềm vui khi em ở xa anh.
 
Không có em – u ám giữa trời xanh
Mùa hè giống như mùa thu lá đổ
Tiếng vàng anh thành tiếng kêu của quạ
Trong đủ đầy lại thiếu thốn với anh.
 
Nhưng hễ nghe tiếng bước chân trong đêm
Trên nỗi đau ánh bình minh tỏa sáng
Tiếng chim hót xua màn đêm u ám
Cả đất trời dường như rộng dài hơn.
 
Mặt đất nở hoa, và anh hiểu rằng
Tất cả tuyệt vời trong vẻ đẹp của em.
 
Love's Blindness
 
Now do I know that Love is blind, for I
Can see no beauty on this beauteous earth,
No life, no light, no hopefulness, no mirth,
Pleasure nor purpose, when thou art not nigh.
 
Thy absence exiles sunshine from the sky,
Seres Spring's maturity, checks Summer's birth,
Leaves linnet's pipe as sad as plover's cry,
And makes me in abundance find but dearth.
 
But when thy feet flutter the dark, and thou
With orient eyes dawnest on my distress,
Suddenly sings a bird on every bough,
The heavens expand, the earth grows less and less,
 
The ground is buoyant as the ether now,
And all looks lovely in thy loveliness.
 
 


MINH TRIẾT CỦA TÌNH YÊU
 
Bây giờ ta đã đến đỉnh của tình
Ta chia tay và không còn đi tiếp
Thà chết hơn rơi từ cao xuống thấp
Đang mạnh mẽ để yếu dần yếu dần.
 
Ta đã tìm ra tất cả rồi em
Đã chứng minh nhiều hơn không cần nữa
Và chỉ rồi đây thời gian có thể
Dạy cho ta giữ hơi ấm của tình.
 
Không thể giữ tình cao hơn lúc này
Thì chúng mình cùng thở phào nhẹ nhõm
Một lần trong đời niềm vui đã nếm
Sẽ là gì nếu cố giữ tình theo?
 
Cho xin thêm nụ hôn của đất trời
Rồi ai theo đường người nấy mà thôi.
 
Love's Wisdom
 
Now on the summit of Love's topmost peak
Kiss we and part; no further can we go:
And better death than we from high to low
Should dwindle or decline from strong to weak.
 
We have found all, there is no more to seek;
All have we proved, no more is there to know;
And time could only tutor us to eke
Out rapture's warmth with custom's afterglow.
 
We cannot keep at such a height as this;
For even straining souls like ours inhale
But once in life so rarefied a bliss.
What if we lingered till love's breath should fail!
 
Heaven of my Earth! one more celestial kiss,
Then down by separate pathways to the vale.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét