Thomas Hardy (2 tháng 6 năm
1840 – 11 tháng 1 năm 1928) – nhà văn, nhà thơ Anh cuối thời đại Victoria. Ông
là nhà văn thiên về tiểu thuyết xã hội thấm đẫm chất bi quan, những nhân vật
trong các tác phẩm của ông không chịu đựng được hoàn cảnh sống, đạo đức của xã
hội và những đòn đau của số phận.
Tiểu sử:
Thomas Hardy sinh ngày 2 tháng 6 năm 1840 tại hạt Dorset ở Tây Nam nước Anh, bên bờ eo biển Anh. Tổ tiên của nhà văn là quý tộc, nhưng sau nghèo đến nỗi cha và ông phải làm thợ xây. Gia đình có hai cậu con trai và hai cô con gái sống ở ngôi làng chỉ có 8 ngôi nhà và dân số là năm mươi người.
Mẹ của Thomas, người biết đọc nhưng không biết viết, đã quyết định rằng
con trai bà xứng đáng được hưởng một nền giáo dục tốt hơn những gì bà đã từng
nhận được. Giáo dục bắt buộc không tồn tại trong những năm đó và nhiều trẻ em
nông thôn lớn lên mà không học đọc hay viết. Thomas là một ngoại lệ – năm chín
tuổi, cậu bé được gửi đi học tại trường của giáo xứ.
Năm 1856, Thomas Hardy tốt nghiệp trung học ở tuổi 16 và được học kiến
trúc do kiến trúc sư John Hicks ở Dorchester dạy. Đồng thời, chàng trai bắt đầu
học tiếng Hy Lạp, tiếng Latin với sự hỗ trợ của nhà thơ và nhà ngôn ngữ học
William Barnes.
Trở về Dorchester với tư cách là một kiến trúc sư độc lập, Hardy đã lên
kế hoạch để tiến hành công việc phục chế nhưng đồng thời cũng bắt đầu thực hiện
những bước đầu tiên của mình trong văn học. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của
Thomas, “Gã nghèo và nàng tiểu thư” (The Poor Man and the Lady), không bao giờ
đến được với bạn đọc – tác giả đã hủy bản thảo sau khi bị nhà xuất bản từ chối.
Để không thất vọng trong tương lai, nhà văn đã xuất bản ẩn danh tác phẩm “Những
phương thuốc tuyệt vọng” (Desperate Remedies) năm 1871.
Một năm trước đó, Thomas đã gặp người vợ đầu tiên là Emma ở Cornwall và
họ cưới nhau năm 1874. Họ sống cùng nhau ở Dorset và London trong mười năm,
trong thời gian đó Hardy trở thành một nhà văn chuyên nghiệp. Emma mất năm
1912. Sự công nhận đầu tiên đến với ông nhờ cuốn tiểu thuyết thứ năm, “Xa đám
đông điên loạn” (Far from the Madding Crowd) xuất bản lần đầu trên tạp chí
Cornhill ở London, và sau đó được xuất bản thành một cuốn sách riêng…
Năm 1913, cuốn sách cuối cùng của Hardy, “Người đàn ông thay đổi” (A
Changed Man and Other Tales) được xuất bản, nơi ông vẫn trung thành với gốc rễ
Dorset của mình. Một năm sau, Hardy bước vào một cuộc hôn nhân mới với nữ nhà
văn Florence Dugdale trẻ hơn ông 39 tuổi. Họ sống cùng nhau ở Max Gate cho đến
khi Hardy qua đời vào năm 1928, khi ông 87 tuổi. Tro cốt của Thomas Hardy được
chôn cất trong Góc Thi sĩ ở Tu viện Westminster và trái tim của ông trong mộ
Emma, không xa nơi sinh của nhà văn. Thomas Hardy hai lần được đề cử vào danh
sách những người đoạt giải Nobel Văn học.
Tác phẩm:
Văn
*Gã nghèo và nàng tiểu thư, The Poor Man and the Lady), 1867
*Những phương thuốc tuyệt vọng, Desperate Remedies), 1871
*Dưới tán cây rừng (Under the Greenwood Tree), 1872
*Mắt biếc (A Pair of Blue Eyes), 1873
*Xa đám đông điên loạn (Far from the Madding Crowd),1874
*Bàn tay của Ethelberta (The Hand of Ethelberta, 1876)
*Trở lại cố hương (The Return of the Native), 1878
*Thị trưởng Casterbridge (The Mayor of Casterbridge), 1886
*Người yêu dấu (The Well Beloved), 1892
*Người đàn ông thay đổi” (A Changed Man), 1913
Thơ
*Những bài thơ Wessex (Wessex Poems, Стих.;
*Thơ về quá khứ và hiện tại (Poems of the Past and Present), 1902
*Trò đùa của thời gian (Times Laighing-Stocks), 1909
*Thơ tuyển (Selected Poems), 1916
*Tuyển tập thơ (Collected Poems), 1919
*Thơ cuối đời (Late Lyrics), 1920
5 bài thơ
Thomas Hardy sinh ngày 2 tháng 6 năm 1840 tại hạt Dorset ở Tây Nam nước Anh, bên bờ eo biển Anh. Tổ tiên của nhà văn là quý tộc, nhưng sau nghèo đến nỗi cha và ông phải làm thợ xây. Gia đình có hai cậu con trai và hai cô con gái sống ở ngôi làng chỉ có 8 ngôi nhà và dân số là năm mươi người.
*Gã nghèo và nàng tiểu thư, The Poor Man and the Lady), 1867
*Những phương thuốc tuyệt vọng, Desperate Remedies), 1871
*Dưới tán cây rừng (Under the Greenwood Tree), 1872
*Mắt biếc (A Pair of Blue Eyes), 1873
*Xa đám đông điên loạn (Far from the Madding Crowd),1874
*Bàn tay của Ethelberta (The Hand of Ethelberta, 1876)
*Trở lại cố hương (The Return of the Native), 1878
*Thị trưởng Casterbridge (The Mayor of Casterbridge), 1886
*Người yêu dấu (The Well Beloved), 1892
*Người đàn ông thay đổi” (A Changed Man), 1913
*Những bài thơ Wessex (Wessex Poems, Стих.;
*Thơ về quá khứ và hiện tại (Poems of the Past and Present), 1902
*Trò đùa của thời gian (Times Laighing-Stocks), 1909
*Thơ tuyển (Selected Poems), 1916
*Tuyển tập thơ (Collected Poems), 1919
*Thơ cuối đời (Late Lyrics), 1920
Tiếng xạc xào cây lá
Anh đây – em đâu đó
Trăm dặm giữa hai ta.
Giá không vì đường dài
Làm cho ta ly biệt
Có lẽ chỉ nụ cười.
Làm ta phải biệt ly
Mạnh hơn gió, hơn mưa
Và dài hơn năm tháng.
1893
With blasts that besom the green,
And I am here, and you are there,
And a hundred miles between!
O were it but the miles
That summed up all our severance,
There might be room for smiles.
Which nothing cleaves or clears,
Is more than distance, Dear, or rain,
And longer than the years!
Sống thiếu đàn bà trong suốt cuộc đời
Giờ chỉ một điều ước mong ở Chúa
Giá mà bố tôi xưa cũng giống tôi.
I've lived without a dame all my life
And wish to God
My dad had done the same.
Tôi sẽ ngồi chung bàn
Và cùng nhau rót rượu
Uống với nhau nhẹ nhàng.
Khi xông lên đối mặt
Thì tôi đã giết chết
Anh ngay chỗ của mình.
Bởi vì anh là giặc
Không còn cách nào khác
Điều đó đã rõ ràng.
Như tôi, không việc làm
Không còn nơi ẩn náu
Mới phải ra chiến trường.
Với người ta đã giết
Có lẽ rượu ta rót
Và chia sẻ chút tiền.
By some old ancient inn,
We should have set us down to wet
Right many a nipperkin!
And staring face to face,
I shot at him as he at me,
And killed him in his place.
Because he was my foe,
Just so: my foe of course he was;
That's clear enough; although
Off-hand like—just as I—
Was out of work—had sold his traps—
No other reason why.
You shoot a fellow down
You'd treat, if met where any bar is,
Or help to half a crown.
Thời tiết trên cửa kính
Khi cơn gió lay động
Đêm nửa tỉnh nửa mơ.
Và lá rơi xuống giường
Cây có điều buồn bã
Muốn nói cùng bóng đêm.
Tôi nghĩ là em đến
Dường như em đang đứng
Và đã biết điều này!
And the panes began to quake,
And the winds rose up and ranged,
That night, lying half-awake.
And alighted upon my bed,
And a tree declared to the gloom
Its sorrow that they were shed.
And I thought that it was you
There stood as you used to stand,
And saying at last you knew!
Trí tuệ của anh như muốn nói rằng
Anh không cần bữa tối với rượu vang
Và không cần những bàn ăn tự chọn.
Quyền lực, vinh quang, giàu có không cần
Không cần người hành hương từ xa xăm
Tò mò ghé đến nhà anh thăm viếng.
Và cho bạn người ta mang tin đến
Thì buổi hoàng hôn, giữa trời chạng vạng
Hãy ghé mồ anh và nói những lời:
Từng yêu anh có hai người phụ nữ”.
Bạn hãy đứng và nói lúc tối trời:
Lời khen cho anh thế này là đủ.
Assessing minds, he does not need,
Nor urgent writs to sup or dine,
Nor pledges in the roseate wine.
By the august or rich or fair,
Nor for smart pilgrims from afar,
Curious on where his hauntings are.
That he has doffed this wrinkled gear,
Some evening, at the first star-ray,
Come to his graveside, pause and say:
Two thoughtful women loved him well.'
Stand and say that amid the dim:
It will be praise enough for him.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét