Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2017

Thơ Oscar Wilde


Oscar Wilde (tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, 16 tháng 10 năm 1854 – 30 tháng 11 năm 1900) – nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nhà soạn kịch Anh gốc Ai-len. Oscar Wilde từ năm lên 12 tuổi đã đội mũ ống và trò chuyện quyến rũ bất kỳ người đối thoại nào. Những người đương thời kể rằng trong những lời trò chuyện của ông có tất cả những nét sắc sảo như những câu danh ngôn, như những vở kịch hay những câu chuyện nổi tiếng thế giới của ông. Còn Oscar Wilde cũng nói rằng sáng tác những vở kịch cũng nhẹ nhàng như là nói chuyện vậy. Những vở kịch của ông, kể cả những vở nổi tiếng nhất, ông chỉ viết trong khoảng thời gian 2 tuần lễ.

Tiểu sử:
Oscar Wilde sinh ở Westland Row, Dublin. Là con thứ hai của Sir William Wilde – một bác sĩ nổi tiếng thế giới, tác giả của nhiều tác phẩm khoa học nổi tiếng và Jane Francesca Wilde – một phụ nữ quí tộc ham mê sân khấu, thường làm thơ ca ngợi quê hương và ca ngợi phong trào giải phóng dân tộc Ai len. Oscar Wilde sớm chịu ảnh hưởng không khí sân khấu và thơ ca từ người mẹ. Từ năm 1864 đến năm 1871 học ở Portora Royal School, Enniskillen (gần Dublin), nổi tiếng là đọc viết nhanh, có khả năng hài hước và ngoại ngữ. Từ năm 1871 đến năm 1874 học lịch sử và văn hóa ở Trinity College, Dublin. Năm 1874 Oscar Wilde giành được học bổng của Magdalen College, Oxford. Tốt nghiệp Oxford năm 1878 Oscar Wilde chuyển hẳn sang sống ở London. 

Năm 1884, Oscar Wilde kết hôn với Constance Lloyd và có hai con trai, Cyril và Vyvyan. Năm 1891, Oscar Wilde gặp Alfred Douglas. Hai người yêu nhau đắm đuối và sống cuộc đời buông thả, không giấu giếm quan hệ đồng tính luyến ái của họ. Cha của Alfred là John Sholto Douglas, Hầu tước Queensberry, không chấp nhận mối quan hệ này và nhiều lần gây sự với Oscar Wilde. Việc này dẫn đến vụ tai tiếng Queensberry và một vụ kiện. Kết quả là Oscar Wilde phải ngồi tù 2 năm. Chi tiết về cuộc tình này có thể xem thêm ở mục từ “Alfred Douglas”. 

Từ ngày bị ngồi tù, đa số bạn bè của Oscar Wilde đã từ bỏ ông. Alfred Douglas, người mà ông yêu tha thiết không một lần đến nhà tù thăm hoặc viết thư trả lời ông. Những ngày trong tù ông nhận được tin mẹ ông đã chết, vợ và hai đứa con trai đã đổi sang họ khác. Những ngày ở tù ông viết những lời thú tội cay đắng dưới dạng một bức thư cho Alfred Douglas và đặt tên là Epistola: In Carcere et Vinculis (tiếng Latin: Bức thư từ chốn ngục tù). Sau đó một người bạn thân của ông – Robert Ross đổi thành De Profundis (tiếng Latin: Tiếng kêu từ vực thẳm – đấy là những lời mở đầu khúc Thánh Vịnh 129 của Kinh Cựu Ước – “Từ vực thẳm con kêu Ngài, lạy Chúa”). Bức thư này được Robert Ross in một phần năm 1905 và được xuất bản đầy đủ sau khi ông mất, năm 1912.

Hy vọng ở sự giúp đỡ của bạn bè, sau ngày ra tù (tháng 5 – 1897) Oscar Wilde đã đổi tên thành Sebastian Melmoth và đi sang Pháp. Ở đây ông viết trường ca nổi tiếng cuối cùng The Ballad of Reading Gaol (Bài ballad của nhà tù Reading, 1898) ký bút danh C.3.3. 

Oscar Wilde mất ở Pháp ngày 30 tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não và được mai táng ở nghĩa trang Bagneux. Năm 1909, hài cốt của ông được chuyển về nghĩa trang Père-Lachaise, một nghĩa trang của Paris nổi tiếng thế giới.

Cuối năm 2007, qua một cuộc thăm dò dư luận do đài BBC tổ chức, Oscar Wilde được khán giả bình chọn là người thông minh nhất của Liên hiệp Anh, vượt qua cả William Shakespeare và Sir Winston Leonard Spencer-Churchill.

Tác phẩm:

Thơ:
*Ravenna (1878)
*Poems (1881)
*The Sphinx (1894)
*Poems in Prose (1894)
*The Ballad of Reading Gaol (1898)

Kịch: 
*Vera; or, The Nihilists (1880)
*The Duchess of Padua (1883)
*Salomé (French version) (1893, first performed in Paris 1896)
*Lady Windermere's Fan (1892)
*A Woman of No Importance (1893)
*Salomé: A Tragedy in One Act: Translated from the French of Oscar Wilde by Lord Alfred Douglas, illustrated by Aubrey Beardsley (1894)
*An Ideal Husband (1895) (text)
*The Importance of Being Earnest (1895) (text)
*La Sainte Courtisane and A Florentine Tragedy Fragmentary. First published 1908 in Methuen's Collected Works

Truyện:
*The Picture of Dorian Gray (1890)
*Teleny, or The Reverse of the Medal (Paris, 1893) has been attributed to Wilde, but was more likely a combined effort by a several of Wilde’s friends, which he may have edited.

Truyện ngắn:
*The Canterville Ghost (1887)

Thư từ:
The Letters of Oscar Wilde (1960) Re-released in 2000, with letters uncovered since 1960, and new, detailed, footnotes by Merlin Holland.

Tuyển tập:
*Intentions (1891, critical dialogues and essays, comprising The Critic as Artist, The Decay of Lying, Pen, Pencil and Poison and The Truth of Masks)
*Lord Arthur Savile's Crime and Other Stories (1891)
*The Happy Prince and Other Stories (1888, fairy tales)
*A House of Pomegranates (1891, fairy tales)


Một số bài thơ



REQUIESCAT

Bước nhẹ êm, - dưới tuyết
Nàng ở đây, rất gần
Hãy nói thật dịu dàng
Cỏ hoa nàng nghe hết.

Óng ánh suối tóc vàng
Nàng đem theo xuống huyệt
Nàng trẻ trung xinh đẹp
Bỗng chốc hóa tro tàn.

Da trắng như hoa huệ
Chỉ nàng biết được rằng
Người phụ nữ dịu dàng
Người đã từng xinh đẹp.

Thế mà giờ đá nặng
Và tấm bảng im lìm
Cõi lòng ta nát tan
Nàng nghỉ trong yên lặng.

Bình yên! – nàng có nghe
Dòng thơ đi vào tuyết
Cả đời ta chôn cất
Nơi giấc ngủ nghìn thu.
____
*Requiescat in pace! (tiếng Latin: Yên nghỉ trong tĩnh lặng) – lời cầu nguyện cho người đã khuất. Đây là bài thơ Oscar Wilde tưởng nhớ em gái Iđơn (Isola) của mình chết năm 1867, khi đó nàng lên 8 tuổi.


Requiescat

Tread lightly, she is near
Under the snow,
Speak gently, she can hear
The daisies grow.

All her bright golden hair
Tarnished with rust,
She that was young and fair
Fallen to dust.

Lily-like, white as snow,
She hardly knew
She was a woman, so
Sweetly she grew.

Coffin-board, heavy stone,
Lie on her breast,
I vex my heart alone,
She is at rest.

Peace, peace, she cannot hear
Lyre or sonnet,
All my life's buried here,
Heap earth upon it.
 


CHANSON

Cho em làm quà tặng
Bồ câu trắng, nhẫn vàng
Còn dây gai cho anh
Trèo cây cao bóng rậm.

Nhà xương voi cho em
Những bông hồng trắng muốt
Còn cho anh giường hẹp
Trắng, trắng hoa độc cần.

Cho em lài thơm ngát
Hoa hồng đỏ thơm lừng
Còn cho anh cây tùng
Và thảo hương đẹp nhất.

Ba người tình trong tay
Cỏ xanh cho người chết
Còn cho anh – trên cát
Gieo hoa huệ bên đầu.


Chanson

A ring of gold and a milk-white dove
Are goodly gifts for thee,
And a hempen rope for your own love
To hang upon a tree.

For you a House of Ivory,
Roses are white in the rose-bower!
A narrow bed for me to lie,
White, O white, is the hemlock flower!

Myrtle and jessamine for you,
O the red rose is fair to see!
For me the cypress and the rue,
Finest of all is rosemary!

For you three lovers of your hand,
Green grass where a man lies dead!
For me three paces on the sand,
Plant lilies at my head!


BỞI VÌ YÊU NHIỀU
(Quia Multum Amavi)

Em thân yêu, lần trải nghiệm đầu tiên
Của Đức Cha trong cái thời tuổi trẻ
Giam thần mình trong bí tích thánh thể
Ăn bánh mỳ và uống rượu không ngon. 

Anh cảm thấy mình ân huệ nhiều hơn
Khi lần đầu anh bị em chinh phục
Và suốt đêm anh cúi mình phủ phục
Ở dưới bàn chân thần tượng của mình.

Em thích ít anh càng yêu nhiều hơn
Trong cái mùa hè mưa và hạnh phúc
Để bây giờ anh mà không ai khác
Trong ngôi nhà đau như một hầu bàn.

Dù hối hận như một kẻ hầu bàn
Anh hạnh phúc vì đã yêu như thế
Vui vì yêu em – nghĩ về tất cả
Như mặt trời với hoa cỏ màu xanh. 
___________
* Quia Multum Amavi (bởi vì yêu nhiều – tiếng Latin) – đây là câu trích từ Kinh Phúc Âm Luca, chương 7, câu 47: “Bởi vậy, tôi nói với anh, chị ấy dù có nhiều tội nhưng đã được tha; bằng cớ là chị yêu thương nhiều. Còn người được tha ít thì yêu thương ít). 

Quia Multum amavi

DEAR Heart I think the young impassioned priest  
  When first he takes from out the hidden shrine  
His God imprisoned in the Eucharist,  
  And eats the bread, and drinks the dreadful wine,  
  
Feels not such awful wonder as I felt          
  When first my smitten eyes beat full on thee,  
And all night long before thy feet I knelt  
  Till thou wert wearied of Idolatry.  
  
Ah! had’st thou liked me less and loved me more,  
  Through all those summer days of joy and rain,   
I had not now been sorrow’s heritor,  
  Or stood a lackey in the House of Pain.  
  
Yet, though remorse, youth’s white-faced seneschal  
  Tread on my heels with all his retinue,  
I am most glad I loved thee—think of all   
  The suns that go to make one speedwell blue!


BUỒN NHƯNG THÊM SỨC MẠNH
(Αἴλινον αἴλινον εἰπέ, τὸ δ’ εὖ νικάτω)

Thật sung sướng cho ai người được sống
Trong giàu sang, ăn hải vị sơn bào
Ai khi sinh ra có một mái nhà
Không ngại gì dù trời mưa hay nắng.

Thật hạnh phúc cho ai không biết đến
Những tháng năm sống trong cảnh đói nghèo
Như người cha trong nước mắt khổ đau
Như người mẹ một mình khóc đau đớn. 

Nhưng hạnh phúc nhất là từ đau khổ
Qua công việc vất vả và đấu tranh
Qua nỗi đau, gian khó của đời mình
Bắc cái thang để đến gần với Chúa. 
_____________
*Αἴλινον αἴλινον εἰπέ, τὸ δ’ εὖ νικάτω – đầu đề bài thơ trong nguyên bản bằng tiếng Hy Lạp. Đây là một câu trong bi kịch “Agamemnon” của nhà soạn kịch Hy Lạp cổ đại Aeschylus, tạm dịch: Nỗi buồn, hãy hát lên nỗi buồn, nhưng mà thêm sức mạnh (Sorrow, sing sorrow, but good shall prevail with power).  

Αἴλινον αἴλινον εἰπέ, τὸ δ’ εὖ νικάτω

O well for him who lives at ease
With garnered gold in wide domain,
Nor heeds the splashing of the rain,
The crashing down of forest trees.

O well for him who ne'er hath known
The travail of the hungry years,
A father grey with grief and tears,
A mother weeping all alone.

But well for him whose foot hath trod
The weary road of toil and strife,
Yet from the sorrows of his life
Builds ladders to be nearer God.


TRONG RỪNG
(In the forest)

Hoàng hôn chốn rừng xa
Lấp lánh trên đồng cỏ
Mắt nâu, bước chân ngà
Có một thần điền dã. 

Thần bước đi và hát
Bóng lẽo đẽo theo sau
Còn ta đây chẳng biết
Theo bóng hay lời ca. 

Thợ săn xin trả bóng
Họa mi trả bài ca
Mà ta từng phí uổng
Dõi theo đến điên rồ!

In The Forest

Out of the mid-wood's twilight
Into the meadow's dawn,
Ivory limbed and brown-eyed,
Flashes my Faun!

He skips through the copses singing,
And his shadow dances along,
And I know not which I should follow,
Shadow or song!

O Hunter, snare me his shadow!
O Nightingale, catch me his strain!
Else moonstruck with music and madness
I track him in vain!


NGHỆ SĨ
(Thơ bằng văn xuôi)

Buổi tối nọ trong tâm hồn người ấy có một khát khao hình ảnh của NIỀM VUI TỒN TẠI TRONG CHỐC LÁT. Và người ấy đã đi ra thế giới để tìm kiếm đồng. Vì người ấy chỉ có thể nghĩ về đồng.

Nhưng tất cả đồng trên toàn thế giới đã biến mất, và không nơi nào trên toàn thế giới có bất kỳ thứ đồng nào mà người ta có thể tìm thấy, chỉ lưu lại đồng có hình ảnh của NỖI BUỒN KÉO DÀI MÃI MÃI. 

Bây giờ hình ảnh này là chính người ấy, bằng chính đôi bàn tay của mình, người ấy đã tạo nên rồi đặt nó trên ngôi mộ của người mà anh ta yêu mến trong đời. Trên ngôi mộ của người đã mà anh yêu nhất, anh đã đặt hình ảnh của riêng mình, rằng nó có thể đóng vai trò là dấu hiệu tình yêu của con người không chết và là biểu tượng cho nỗi buồn của con người tồn tại mãi mãi. Và trên toàn thế giới này không có thứ đồng nào khác ngoài thứ đồng của hình ảnh này.

Và người ấy lấy hình ảnh mà mình đã tạo ra, và đặt nó vào một cái lò lớn, và đưa nó vào lửa.

Và từ hình ảnh của NỖI BUỒN KÉO DÀI MÃI MÃI người ấy đã tạo ra hình ảnh của NIỀM VUI TỒN TẠI TRONG CHỐC LÁT.  

THE ARTIST
(Poem in prose)

ONE evening there came into his soul the desire to fashion an image
of THE PLEASURE THAT ABIDETH FOR A MOMENT. And he went forth into
the world to look for bronze. For he could think only in bronze.

But all the bronze of the whole world had disappeared, nor anywhere
in the whole world was there any bronze to be found, save only the
bronze of the image of THE SORROW THAT ENDURETH FOR EVER.

Now this image he had himself, and with his own hands, fashioned,
and had set it on the tomb of the one thing he had loved in life.
On the tomb of the dead thing he had most loved had he set this
image of his own fashioning, that it might serve as a sign of the
love of man that dieth not, and a symbol of the sorrow of man that
endureth for ever. And in the whole world there was no other
bronze save the bronze of this image.

And he took the image he had fashioned, and set it in a great
furnace, and gave it to the fire.

And out of the bronze of the image of THE SORROW THAT ENDURETH FOR
EVER he fashioned an image of THE PLEASURE THAT ABIDETH FOR A
MOMENT.


NGƯỜI HÂM MỘ
(Thơ bằng văn xuôi)

Khi Narcissus chết, dòng suối từng là niềm vui của anh ta đã thay đổi từ một tách
nước ngọt thành một cốc nước mắt mặn chát, và những tiên nữ đã khóc xuyên qua rừng rằng họ có thể hát lên để mang lại niềm vui cho dòng suối.

Và khi họ thấy rằng dòng suối đã thay đổi từ một tách nước ngọt ngào thành một cốc nước mắt mặn chát thì họ buông xõa những mái tóc xanh của mình, họ khóc trên dòng suối, và họ nói: “Chúng tôi không ngạc nhiên trước nỗi buồn của bạn về Narcissus, anh ta đẹp lắm phải không”. 

 “Nhưng Narcissus có đẹp không?” – dòng suối đáp. 

“Ai nên biết điều đó hay hơn bạn?” – các nữ thần trả lời. – anh ấy chỉ đi ngang qua chúng tôi nhưng anh ta đi tìm bạn, nằm trên bờ và nhìn xuống bạn, và trong gương của nước bạn, anh ta nhìn ra sự phản chiếu vẻ đẹp của chính mình”. 

Và dòng suối trả lời rằng: “Nhưng mà ta yêu Narcissus bởi vì, khi anh ấy nằm trên bờ và nhìn xuống ta thì trong đôi mắt anh ấy, ta nhìn ra vẻ đẹp của mình”. 

THE DISCIPLE
(Poem in prose)

When Narcissus died the pool of his pleasure changed from a cup of
sweet waters into a cup of salt tears, and the Oreads came weeping
through the woodland that they might sing to the pool and give it
comfort.

And when they saw that the pool had changed from a cup of sweet
waters into a cup of salt tears, they loosened the green tresses of
their hair and cried to the pool and said, 'We do not wonder that
you should mourn in this manner for Narcissus, so beautiful was
he.'

'But was Narcissus beautiful?' said the pool.

'Who should know that better than you?' answered the Oreads. 'Us
did he ever pass by, but you he sought for, and would lie on your
banks and look down at you, and in the mirror of your waters he
would mirror his own beauty.'

And the pool answered, 'But I loved Narcissus because, as he lay on
my banks and looked down at me, in the mirror of his eyes I saw
ever my own beauty mirrored.'



BẬC THẦY
(Thơ bằng văn xuôi) 

Bây giờ, khi bóng tối đã bao trùm trên mặt đất thì Giô-sép*, người ở A-ri-ma-thê đã thắp một ngọn đuốc gỗ thông, ông đi từ ngọn đồi xuống thung lũng. Ông có việc và đi về nhà mình. 

Và ông nhìn thấy một thanh niên trần truồng và đang khóc trên những tảng đá của Thung lũng Tuyệt vọng. Tóc anh ta giống màu mật và cơ thể anh như một bông hoa trắng nhưng anh đã làm cho cơ thể mình bị thương vì gai sắc và trên mái tóc anh đã rắc tro lên thay vì vương miện. 

Và người có tài sản lớn nói với chàng trai trẻ trần truồng và khóc lóc: “Tôi không ngạc nhiên rằng nỗi buồn của bạn là quá lớn, vì chắc chắn Ngài là một người công bằng”. 

Và chàng trai trả lời: “Không phải vì Ngài mà tôi khóc, mà tôi đang khóc cho mình. Tôi đã biến nước sông thành rượu, tôi chữa lành cho người bệnh hủi và ban sự sáng cho người mù. Tôi đã đi trên nước và từ những người sống trong các ngôi mộ tôi đã xua đi quỷ dữ. Tôi đã cho người đói ăn trong sa mạc, nơi không có
thức ăn, và tôi đã hồi sinh người chết từ những ngôi nhà chật hẹp của họ, và theo lệnh của tôi, trước mắt vô số người, cây vả cằn cỗi đã khô héo. Tất cả những điều mà người đàn ông này đã làm thì tôi cũng đã làm như thế. Thế mà tôi vẫn bị đóng đinh”.   
_________
*Nhân vật trong Kinh Phúc Âm – Luca, XXXIII, 50-51. 

THE MASTER
(Poem in prose)

Now when the darkness came over the earth Joseph of Arimathea,
having lighted a torch of pinewood, passed down from the hill into
the valley. For he had business in his own home.

And kneeling on the flint stones of the Valley of Desolation he saw
a young man who was naked and weeping. His hair was the colour of
honey, and his body was as a white flower, but he had wounded his
body with thorns and on his hair had he set ashes as a crown.

And he who had great possessions said to the young man who was
naked and weeping, 'I do not wonder that your sorrow is so great,
for surely He was a just man.'

And the young man answered, 'It is not for Him that I am weeping,
but for myself. I too have changed water into wine, and I have
healed the leper and given sight to the blind. I have walked upon
the waters, and from the dwellers in the tombs I have cast out
devils. I have fed the hungry in the desert where there was no
food, and I have raised the dead from their narrow houses, and at
my bidding, and before a great multitude, of people, a barren fig-
tree withered away. All things that this man has done I have done
also. And yet they have not crucified me.'



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét