Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2017

Thơ Wilfred Owen


Wilfred Edward Salter Owen (18 tháng 3 năm 1893 – 4 tháng 11 năm 1918) là nhà thơ Anh có ảnh hưởng lớn đến thơ ca thập niên 1930, thế kỷ XX.

Tiểu sử:
Wilfred Owen sinh ở Oswestry xứ Shropshire. Biết làm thơ từ nhỏ. Học trường Cao đẳng Reading (này là Đại học Reading) được mấy tháng thì bỏ học vì lý do sức khỏe. Năm 1913 Wilfred Owen đi sang Pháp làm nghề dạy học ở thành phố Bordeaux. Năm 1915 nghe những lời tuyên truyền về lòng yêu nước đã quay trở về Anh nhập ngũ. Năm 1917 bị thương điều trị ở quân y viện Edinburgh. Ở đây Wilfred Owen làm quen với nhà thơ Siegfried Sassoon (1886 – 1967) là người có nhiều bài thơ chống chiến tranh đã nổi tiếng. Sự làm quen này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tài năng thơ ca của Wilfred Owen.

Tháng 8 năm 1918 Wilfred Owen quay trở lại phục vụ ở hạm đội và đã chiến đấu dũng cảm, được tặng huân chương Thập tự (Military Cross). Wilfred Owen hy sinh ở kênh Sambre-Oise (Sambre-Oise Canal) ngày 4 tháng 11 năm 1918 – một tuần trước khi chiến tranh kết thúc.

Thơ của Wilfred Owen chỉ nổi tiếng sau khi ông chết. Lúc còn sống chỉ có 4 bài thơ được in.[1] Tập thơ đầu tiên được xuất bản năm 1920, sau đó được tái bản và bổ sung vào năm 1931. Thơ ông thể hiện thái độ căm ghét chiến tranh cùng lòng thương người và sự thông cảm với nghĩa vụ của những người lính. Trong Lời nói đầu cho quyển sách dự định xuất bản, Wilfred Owen viết: “Cuốn sách này không về những anh hùng. Thơ ca Anh không sẵn sàng cho việc này. Cuốn sách này không về những chiến công, những đất nước, những vinh quang, không về danh dự hay sức mạnh, không về sự thống trị hay chính quyền mà chỉ về Chiến tranh. Với tôi, trước hết là thơ ca. Đối tượng của tôi là Chiến tranh và Lòng thương do chiến tranh gây ra. Lòng thương là Thơ ca. Và những khúc bi ca này không thể an ủi thế hệ này. Có thể là thế hệ sau. Mọi nhà thơ hôm nay đều có thể cảnh báo. Bởi thế, nhà thơ chân chính là cần nói lên sự thật”. Những lời này thể hiện đầy đủ chính kiến của Wilfred Owen. Nhiều trích đoạn thơ của ông được nhạc sĩ nổi tiếng Benjamin Britten sử dụng trong tác phẩm Khúc tưởng niệm chiến tranh (War Requiem). 

Wilfred Owen cũng là tên của một giải thưởng thơ trao cho những nhà thơ tiếp tục truyền thống thơ ông. Các nhà thơ đoạt giải Nobel như Seamus Heaney, Harold Pinter từng được nhận giải thưởng này.

Những bài thơ nổi tiếng nhất của Wilfred Owen đã được dịch ra tiếng Việt.


DULCE ET DECORUM EST

Người gấp đôi lại như ăn mày ôm bao tải
Lưng quay về khói lửa của chiến tranh
Khản cỏ vì ho, chúng tôi khập khễnh lê chân
Mệt mỏi rã rời, khát khao về nơi nghỉ.
Chúng tôi lê chân, đôi mắt mơ màng ngủ
Giày dép không còn, mong thoát cho mau
Mò mẫm đi, không phân biệt nổi phía sau
Tiếng lựu đạn, tiếng bom đì đùng nổ.

Hơi độc! Nhanh lên! Những bước chân luống cuống
Tìm để đeo vào mặt nạ chống hơi cay
Ai đó lề mề, giẫm chân phải chất nhầy
Rồi giãy giụa như trong thùng lửa bỏng
Trong ánh sáng có màu xanh đặc quánh
Tôi thấy mình bất lực tựa trong mơ
Muốn giúp mà không giúp được anh ta
Anh ta vẫy vùng và rồi chìm nghỉm.

Giá mà bạn đã cùng lê bước với chúng tôi
Sau cái xe mà chúng tôi chất xác chết
Nhìn khuôn mặt và đôi mắt trắng bệch
Nhưng đôi mắt không còn thấy nữa rồi.
Bạn nhìn thấy máu me cùng bao xác chết
Thì bạn sẽ hiểu ra, bạn của tôi ơi
Thì bạn sẽ không còn dạy cho lớp trẻ
Những lời dối gian xưa nghe đầy cám dỗ:
Dulce et decorum est
pro patri mori
Được chết vì tổ quốc
sung sướng và ngọt ngào thay.


Dulce et Decorum Est

Bent double, like old beggars under sacks,
Knock-kneed, coughing like hags, we cursed through sludge,
Till on the haunting flares we turned our backs
And towards our distant rest began to trudge.
Men marched asleep. Many had lost their boots
But limped on, blood-shod. All went lame; all blind;
Drunk with fatigue; deaf even to the hoots
Of tired, outstripped Five-Nines that dropped behind.

Gas! Gas! Quick, boys! – An ecstasy of fumbling,
Fitting the clumsy helmets just in time;
But someone still was yelling out and stumbling,
And flound'ring like a man in fire or lime...
Dim, through the misty panes and thick green light,
As under a green sea, I saw him drowning.
In all my dreams, before my helpless sight,
He plunges at me, guttering, choking, drowning.

If in some smothering dreams you too could pace
Behind the wagon that we flung him in,
And watch the white eyes writhing in his face,
His hanging face, like a devil's sick of sin;
If you could hear, at every jolt, the blood
Come gargling from the froth-corrupted lungs,
Obscene as cancer, bitter as the cud
Of vile, incurable sores on innocent tongues,
My friend, you would not tell with such high zest
To children ardent for some desperate glory,
The old Lie; Dulce et Decorum est
Pro patria mori.



BÀI THÁNH CA CHO TUỔI XUÂN BẤT HẠNH

Chuông nào cho những người chết như gia súc?
Hay chỉ có tiếng gầm giận dữ của pháo binh
Và những tiếng kéo dài của súng liên thanh
Lời nguyện cầu được nói rất nhanh chóng.
Không lễ cầu hồn, không tưởng niệm, không chuông 
Không tiếng khóc, chẳng bàn thờ, lời nguyện
Khắp nơi chỉ tiếng rít điên cuồng của súng.
Những tiếng kèn từ những vùng quê đau buồn
Và những ngọn nến cầu chúc họ thành công
Không ở trong tay, mà trong đôi mắt họ
Tỏa sáng trong những lời vĩnh biệt thiêng liêng. 
Trong những quan tài có bờ mi thiếu nữ
Hoa dịu dàng, những nghĩ suy buồn bã
Và mỗi chiều vẫn đợi những màn đêm. 


Anthem for Doomed Youth

What passing-bells for these who die as cattle?
Only the monstrous anger of the guns.
Only the stuttering rifles' rapid rattle
Can patter out their hasty orisons.
No mockeries now for them; no prayers nor bells;
Nor any voice of mourning save the choirs, –
The shrill, demented choirs of wailing shells;
And bugles calling for them from sad shires.
What candles may be held to speed them all?
Not in the hands of boys but in their eyes
Shall shine the holy glimmers of goodbyes.
The pallor of girls' brows shall be their pall;
Their flowers the tenderness of patient minds,
And each slow dusk a drawing-down of blinds.



SỰ KẾT THÚC


Sau tiếng sét vang lên từ phía đông
Cỗ xe tang lao trong mây đen ấy
Sau tiếng trống của thời gian lặng ngừng
Sắc đồng từ phía tây ngừng tuôn chảy.

Cuộc đời làm xác chết hồi sinh lại?
Xua cái chết, xua nước mắt khổ đau
Rửa những vết thương đau bằng nước mới
Cấy vào ven dòng máu nóng tuôn trào.

Tuổi bạc trắng ghé tai tôi thầm thĩ:
“Tuyết đã xua tất cả trên đầu tôi”
Từ mặt đất tôi nghe câu trả lời:

Con tim tôi đã thiêu bằng lửa cháy
Chỗ cho tôi trên đời không còn nữa
Nước mắt không làm khô được biển khơi. 


The end

After the blast of lightning from the east,
The flourish of loud clouds, the Chariot throne,
After the drums of time have rolled and ceased
And from the bronze west long retreat is blown,

Shall Life renew these bodies? Of a truth
All death will he annul, all tears assuage?
Or fill these void veins full again with youth
And wash with an immortal water age?

When I do ask white Age, he saith not so, --
"My head hangs weighed with snow".
And when I hearken to the Earth she saith

My fiery heart sinks aching. It is death.
Mine ancient scars shall not be glorified
Nor my titanic tears the seas be dried".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét