Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2017

Thơ William Wordsworth


William Wordsworth (07 tháng 4 năm 1770 - 23 tháng 4 năm 1850) là nhà thơ lãng mạn Anh, người cùng với Samuel Taylor Coleridge khởi xướng trào lưu lãng mạn trong văn học tiếng Anh với tác phẩm Thơ trữ tình (Lyrical Ballads, 1798). Trong làng thi ca Anh, ông được xếp ngồi chiếu trên, cùng mâm với William Shakespeare và John Milton. William Wordsworth được bầu làm Nhà thơ Hoàng gia (Poet Laureate) của Anh từ năm 1843 cho đến khi ông qua đời vào năm 1850.

Tiểu sử:
William Wordsworth sinh ngày 7 tháng 4 năm 1770 ở Cockermouth, Cumberland. Là con thứ hai trong một gia đình có 5 người con. Wordsworth xuất hiện lần đầu như là một nhà thơ vào năm 1787 khi ông in một bài thơ trong Tạp chí châu Âu (The European Magazine). Cũng trong năm đó ông vào học trường Cao đẳng St John, Cambridge, chuyên ngành văn học Anh và tiếng Ý. Ông nhận bằng Cử nhân năm 1791. Trong những kỳ nghỉ ông thường đi du ngoạn ở nhiều nơi và viết trường ca Cuộc dạo chơi buổi chiều (An Evening Walk) với nhiều câu thơ tả phong cảnh thiên nhiên nổi tiếng. Mùa hè năm 1790 ông cùng với một người bạn đi bộ dọc nước Pháp, qua Thụy Sĩ rồi sang Ý. Thời gian ở Pháp ông yêu một cô gái Pháp tên là Annette Vallon, cô gái này sinh cho ông một đứa con gái đặt tên là Caroline. William Wordsworth thừa nhận mình là cha của đứa bé nhưng từ chối việc cưới mẹ nó. Trở về Anh, ông xuất bản Cuộc dạo chơi buổi chiều cùng với một số truyện viết ở Pháp. 

Năm 1794 một người bạn của William Wordsworth chết, trước đó người này đã di chúc cho ông được hưởng số tiền 900 bảng. Món quà này giúp cho William Wordsworth có thể dành tất cả thời gian cho thơ ca. Từ năm 1795 đến năm 1797 ông viết bi kịch thơ Dân biên giới (The Borderers) về những xung đột giữa những người ở vùng biên Anh và Scotland. Trường ca Ngôi nhà đổ nát (The Ruined Cottage) – về số phận bất hạnh của những phụ nữ, sau đó trường ca này trở thành phần đầu của tác phẩm Chuyến tham quan (The Excursion). 

Năm 1802 bá tước William Lowther chết, người thừa kế của bá tước đồng ý trả cho William Wordsworth 4000 bảng, là số tiền mà William Lowther ngày trước nợ cha của ông. Số tiền này là một tài sản lớn đối với William Wordsworth và em gái của ông, giúp cho William Wordsworth có thể cưới vợ. Tháng 8 năm 1802 William Wordsworth cùng vợ sắp cưới là Mary Hutchinson và em gái Dorothy sang Pháp thăm Annette Vallon và con gái Caroline. Tháng 10 năm này William Wordsworth và Mary Hutchinson làm đám cưới. Cuộc hôn nhân của họ hạnh phúc và họ có 5 người con.

Năm 1843, sau cái chết của nhà thơ Robert Southey, William Wordsworth được bầu làm Nhà thơ Hoàng gia (Poet Laureate). Những năm cuối đời, mà đặc biệt sau cái chết của đứa con gái, William Wordsworth bỏ làm thơ.

William Wordsworth mất ngày 23 tháng 4 năm 1950. 

Tác phẩm:
*Thơ trữ tình (Lyrical Ballads, 1798)
*Dân biên giới (The Borderers, 1796) 
*Ngôi nhà đổ nát (The Ruined Cottage, 1797)
*Thơ trữ tình và những bài thơ khác (Lyrical Ballads, with Other Poems, 1800)
*Thơ hai tập (Poems in Two Volumes, 1807
*Chuyến tham quan (The Excursion, 1814)
*Thơ cảm tạ (Thanksgiving Ode, 1816)
*Sông Duddon (The River Duddon, 1820
*Khúc dạo đầu (The Prelude, 1850)

Một số bài thơ


HOA THỦY TIÊN


Như đám mây, tôi thơ thẩn một mình
Trôi bồng bềnh trên đồi, trên thung lũng
Và bỗng nhiên nhìn thấy một đám đông
Là những bông hoa thủy tiên vàng óng
Bên hồ nước, dưới tán cây soi bóng
Trong gió rung rinh những cánh hoa vàng. 

Không ngừng nghỉ như ngôi sao tỏa sáng
Và lung linh, lấp lánh giữa Ngân Hà
Hoa kéo dài thành dải tới mờ xa
Và ngút mắt trải dài theo bờ vịnh
Ngàn vạn hoa thấy tôi như chào đón 
Nghiêng mái đầu trong vũ điệu của hoa.

Những con sóng cũng mừng vui hớn hở
Nhưng với hoa đâu có thể sánh bằng
Và khi trong những niềm vui như thế 
Tâm hồn nhà thơ như muốn lặng ngừng
Tôi nhìn tất cả và tôi suy nghĩ
Cõi trần gian thật kỳ diệu khác thường.

Rất thường xuyên những khi nghỉ trên giường
Khi tâm trạng trầm ngâm, khi trống vắng
Những bông hoa trong lòng tôi hồi tưởng
Và nhảy múa cùng hạnh phúc cô đơn
Thì con tim lại rộn ràng vui sướng
Hòa nhịp chân cùng vũ điệu thủy tiên.


The daffodils

I wandered lonely as a cloud
That floats on high o'er vales and hills,
When all at once I saw a crowd,
A host, of golden daffodils;
Beside the lake, beneath the trees,
Fluttering and dancing in the breeze.

Continuous as the stars that shine
And twinkle on the Milky Way,
They stretched in never-ending line
Along the margin of a bay:
Ten thousand saw I at a glance,
Tossing their heads in sprightly dance.

The waves beside them danced, but they
Out-did the sparkling waves in glee:
A Poet could not but be gay,
In such a jocund company:
I gazed--and gazed--but little thought
What wealth the show to me had brought:

For oft, when on my couch I lie
In vacant or in pensive mood,
They flash upon that inward eye
Which is the bliss of solitude;
And then my heart with pleasure fills,
And dances with the daffodils.




VIẾT TRÊN CẦU WESTMINTER 3 THÁNG 9 NĂM 1802

Thế gian này chẳng có gì đẹp hơn
Người qua đường biết làm sao hờ hững
Trước cảnh tượng uy nghi và hoành tráng
Thành phố tôi khoác bộ cánh cho mình. 

Vẻ đẹp buổi sáng tinh khôi, lặng lẽ
Tàu, tháp, đền thờ, nhà hát, mái vòm
Như chìm đắm giữa đồng ruộng, trời xanh
Tất cả lấp lánh trong bầu không khí. 

Không nơi nào ánh bình minh đẹp thế
Thung lũng, núi đồi trong ánh sáng đầu tiên
Vẻ lặng sâu tôi chưa từng cảm thấy! 

Con sông thì thầm, ơi con sông chảy
Những ngôi nhà như đang ngủ mơ màng
Và cây cầu đồ sộ vẫn nằm yên.


Composed Upon Westminster Bridge, September 3, 1802

Earth has not anything to show more fair;
Dull would he be of soul who could pass by
A sight so touching in majesty:
This city now doth’, like a garment wear

The beauty of the morning silent, bare,
Ships, towers, domes, theatres, and temples lie
Open unto the fields, and to the sky;
All bright and glittering in the smokless air.

Never did sun more beautifully steep
In his first splendor, valley, rock, or hill;
Never saw I, never felt, a calm so deep!

The river glideth at his own sweet will:
Dear God! The very houses seem asleep;
And all that mighty heart is lying still!


EM ĐẸP LẮM NHƯNG MÀ EM HÃY NHỚ


Em đẹp lắm, nhưng mà em hãy nhớ
Hãy lắng nghe sự thừa nhận của anh:
Chuyện anh đã từng yêu em một thuở
Đấy là anh yêu tưởng tượng của mình.

Trời bạn tặng cho ta óc tưởng tượng
Em hãy tin rằng như vậy, em yêu
Nếu lý trí không sẵn sàng tiếp nhận
Quả thực anh không biết phải làm sao.

Theo những gì mà thiên nhiên ban tặng
Để gợi lòng tôn kính ở nơi anh
Sống theo luật mà bao nhiêu thứ vẫn
Như đất, trời, như không khí, đại dương. 


Yes! Thou art fair, yet be not moved

Yes! Thou art fair, yet be not moved
To scorn the declaration,
That sometimes I in thee have loved
My fancy’s own creation.

Imagination needs must stir;
Dear Maid, this truth believe,
Minds that have nothing to confer
Find little to perceive.

Be pleased that nature made thee fit
To feed my heart’s devotion,
By laws to which all Forms submit
In sky, air, earth, and ocean.




LUCY 

II
Nàng ở nơi hẻo lánh
Gần cạnh bên bờ sông
Chẳng có ai biết đến
Và ít kẻ yêu nàng. 

Hoa tím khuất bên đá
Chẳng có ánh mắt nhìn
Sao giữa trời đơn lẻ
Thì sao sáng lung linh. 

Nàng đã sống cô đơn
Và con đường đi hết
Giờ về nơi suối vàng
Cho tôi điều khác biệt. 

III
Giữa những người xa lạ
Giờ ở chốn xa xôi
Nước Anh ơi, tôi sẽ 
Giữ tình yêu của Người. 

Qua giấc mơ sầu muộn
Tôi sẽ không giã từ
Người, là nơi bờ bến
Càng yêu Người hơn xưa. 

Nơi đó, dưới ngọn đồi
Mà ngày xưa cô gái
Bên bếp lửa của Người
Đã từng ngồi dệt vải. 

Ngày vỗ về, đêm giấu
Khu vườn của Lucy
Và đâu đây vẫn thấy
Đôi mắt của Lucy. 

V
Tôi trong cơn mơ màng
Không điều chi lo lắng.
Nàng giờ không cảm nhận
Luân chuyển của tháng năm. 

Nàng yên nghỉ muôn đời
Không nghe và không thấy
Đá phiến và cây cối 
Trong vòng quay đất trời. 


Lucy

II
She dwelt among the untrodden ways
Beside the springs of Dove’’
A maid whom there were none to praise
And very few to love:

A violet by a mossy stone
Half hidden from the eye!
Fair as a star, whom only one
Is shining in the sky.

She lived unknown, and few could know
When Lucy ceased to be;
But she is in her grave, and, oh,
The difference to me!

III
I travelled among unknown men,
In lands beyond the sea;
Nor, England! did I know till then
What love I bore to thee.

Tis past, that melancholy dream!
Nor will I quit thy shore
A second time; for still I seem
To love thee more and more.

Among thy mountains did I feel
The joy of my desire;
And she I cherished turned her wheel
Beside an English fire.

Thy mornings showed, thy nights concealed
The bowers where Lucy played;
And thine too is the last green field
That Lucy's eyes surveyed.

V
A slumber did my spirit seal;
I had no human fears:
She seemed a thing that could not feel
The touch of earthly years.

No motion has she now, no force;
She neither hears nor sees;
Rolled round in earth's diurnal course,
With rocks, and stones, and trees.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét