David Herbert Lawrence (11
tháng 9 năm 1885 – 2 tháng 3 năm 1930) – nhà văn, nhà thơ Anh. Lawrence là một trong những nhà văn Anh chủ
chốt của đầu thế kỷ 20. Trong các tiểu thuyết tâm lý ông kêu gọi những người
đương thời mở lòng đón nhận những “vị thần đen tối” của nhận thức bản năng về tự
nhiên, tình cảm và tình dục. Theo Lawrence, sự trưởng thành và khôn ngoan đồng
nghĩa với việc bác bỏ chủ nghĩa duy lý đặc trưng của thế kỷ 19. Ngoài tiểu thuyết,
Lawrence còn viết tiểu luận, thơ, kịch, và truyện ngắn. Một số cuốn sách của
Lawrence, trong đó có “Người tình của
phu nhân Chatterley” (Lady Chatterley's Lover) một thời gian dài bị cấm xuất bản
vì tục tĩu. Mô típ chính của thơ Lawrence là từ chối sự ảnh hưởng thiếu nhân bản
của xã hội công nghiệp và trở về với sự tự nhiên của thiên nhiên và cuộc sống.
Tiểu sử
David Herbert Lawrence là con thứ tư của Arthur John Lawrence, một thợ mỏ không biết chữ tại Brinsley Colliery và Lydia Beardsall, một cựu giáo viên đã bị buộc phải làm công việc thủ công trong một nhà máy ren do gia đình khó khăn về tài chính. Mối quan hệ căng thẳng giữa cha mẹ ông là nền tảng cho nhiều tác phẩm đầu tiên của ông.
Năm 1898, Lawrence nhận được học bổng vào trường Trung học Nottingham,
và năm 1906 tốt nghiệp ngành Sư phạm ở Đại học Nottingham. Ông dạy học tại trường
tiểu học Croydon, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết truyện. Năm 1907, ông giành
chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn của tờ báo “Nottinghamshire Guardian”, lần
đầu tiên ông được mọi người công nhận tài năng văn chương của mình.
Tháng 1 năm 1912, Lawrence gặp Frieda von Richthofen, vợ của một cựu giáo viên Đại học Nottingham và là mẹ của ba đứa trẻ. Họ ngay lập tức yêu nhau và cùng nhau đi sang Đức. Sau hai năm đi du lịch ở Đức và Ý, họ trở về Anh và kết hôn vào tháng 7 năm 1914. Đó là một cuộc hôn nhân sôi nổi ngay từ đầu và nó đã truyền cảm hứng cho Lawrence viết tập thơ “Xem kìa! Chúng ta đã làm được rồi” (Look! We Have Come Through, 1917).
Năm 1928 ông viết và xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng của mình “Người
tình của Lady Chatterley”. Ở Anh, cuốn tiểu thuyết này chỉ được xuất bản vào
năm 1960. Nó bị cấm vì ngôn từ tục tĩu, cảnh quan hệ tình dục rõ ràng của một
anh chàng thuộc tầng lớp lao động nghèo và một cô gái quý tộc.
Trong những tháng cuối đời ông làm rất nhiều thơ và viết tiểu luận.
Lawrence qua đời vì bệnh lao tại thành phố Vence, Pháp. Sau khi ông chết Frieda
kết hôn với Angelo Ravagli. Họ chuyển đến một trang trại ở Taos, Mỹ. Chồng mới
của Frieda đã sắp xếp để khai quật, hỏa táng và chuyển tro cốt của Lawrence đến
một nhà nguyện nhỏ ở vùng núi New Mexico, Mỹ.
Tác phẩm chính
Văn
*Chim công trắng The White Peacock, 1911)
*Kẻ xâm nhập (The Trespasser, 1912)
*Những đứa con trai và những người tình (Sons and Lovers, 1913)
*Cầu vồng (The Rainbow, 1915)
*Người đàn bà đang yêu (Women in Love, 1920)
*Cô gái lạc lối (The Lost Girl, 1920)
*Người tình của phu nhân Chatterley (Lady Chatterley's Lover, 1928)
Thơ
*Thơ tình và những bài thơ khác (Love Poems and others, 1913)
*Xem kìa! Chúng ta đã làm được rồi (Look! We Have Come Through, 1917)
*Những bài thơ mới (New Poems, 1918)
*Những chú chim, những con thú và những đóa hoa (Birds, Beasts and Flowers, 1923)
*Tuyển tập thơ D H Lawrence (The Collected Poems of D H Lawrence, 1928)
*Những bài thơ cuối (Last Poems, 1932)
*Lửa và những bài thơ khác (Fire and other poems, 1940)
6 bài thơ
TỰ THƯƠNG MÌNH
Tôi chưa bao giờ thấy thứ gì hoang dã
biết thương tiếc cho chính mình.
Con chim nhỏ chết cóng rơi xuống từ cành
mà không hề thấy tiếc cho chính nó.
Self-Pity
I never saw a wild thing
sorry for itself.
A small bird will drop frozen dead from a bough
without ever having felt sorry for itself.
MÀU XANH
Bình minh có màu xanh của táo
Bầu trời như rượu vang trong ánh mặt trời
Mặt trăng như cánh hoa vàng đang nở.
Nàng mở đôi mắt màu xanh của mình
Tỏa sáng như những bông hoa đang nở
Như những bông hoa nhìn thấy lần đầu tiên.
Green
The dawn was apple-green,
The sky was green wine held up in the sun,
The moon was a golden petal between.
She opened her eyes, and green
They shone, clear like flowers undone,
For the first time, now for the first time seen.
THÂN MẬT
Anh không quan tâm đến tình yêu của em?
Cô nàng chua chát hỏi.
Tôi đưa cho nàng chiếc gương và nói
Em hỏi chẳng đúng lúc, đúng nơi
Chuyện tình cảm tế nhị như thế này
Tìm những cơ quan tối cao mà hỏi! –
Và tôi đưa cho nàng chiếc gương soi
Có lẽ nàng sẽ đập nó vào đầu tôi
Nhưng nàng nhìn thấy mình trong ấy
Khiến cho nàng bị mê hoặc hai giây
Trong khi tôi kịp thời bỏ chạy.
Intimates
Don't you care for my love? she said bitterly.
I handed her the mirror, and said:
Please address these questions to the proper person!
Please make all requests to head-quarters!
In all matters of emotional importance
please approach the supreme authority direct! -
So I handed her the mirror.
And she would have broken it over my head,
but she caught sight of her own reflection
and that held her spellbound for two seconds
while I fled.
NGƯỜI TA NÓI RẰNG BIỂN KHÔNG CÓ TÌNH
Người ta nói rằng biển không có tình
Rằng trong biển tình yêu không thể sống
Chỉ là những mảnh muối của cuộc sống không tình.
Nhưng từ biển xanh
cá heo nhảy quanh tàu của Dionysos
cột buồm có dây màu tím leo quanh
và chúng đi lên với màu tím của cầu vồng
nhảy lên rồi đắm chìm trong hạnh phúc
và biển đang làm tình với Dionysos
những chú cá voi con vui vẻ lượn tung tăng.
They Say the Sea is Loveless
They say the sea is loveless, that in the sea
love cannot live, but only bare, salt splinters
of loveless life.
But from the sea
the dolphins leap round Dionysos’s ship
whose mast have purple vines,
and up they come with the purple dark of rainbows
and flip! they go! with the nose-dive of sheer delight:
and the sea is making love to Dionysos
in the bouncing of these small and happy whales.
TÊN TRỘM TRONG ĐÊM
Đêm hôm qua tên trộm đến nhà tôi
Hắn đánh tôi bằng cái gì rất tối
Tôi kêu lên nhưng không ai nghe thấy
Tôi nằm im, không thể nói nên lời.
Và khi thức dậy trong buổi sáng nay
Tôi đã đi tìm nhưng không thấy dấu
Có thể đấy là giấc mơ cảnh báo
Rằng đã mất sự yên lặng của tôi.
Thief in the Night
LAST night a thief came to me
And struck at me with something dark.
I cried, but no one could hear me,
I lay dumb and stark.
When I awoke this morning
I could find no trace;
Perhaps ’twas a dream of warning,
For I’ve lost my peace.
CON MUỖI BIẾT
Con muỗi biết rằng mình nhỏ bé
rằng nó là con vật săn mồi.
Nhưng cuối cùng nó đã
uống cho thỏa cơn say
không gửi máu tôi vào ngân hàng máu.
The Mosquito Knows
The mosquito knows full well, small as he is
he's a beast of prey.
But after all
he only takes his bellyful,
he doesn't put my blood in the bank.
David Herbert Lawrence là con thứ tư của Arthur John Lawrence, một thợ mỏ không biết chữ tại Brinsley Colliery và Lydia Beardsall, một cựu giáo viên đã bị buộc phải làm công việc thủ công trong một nhà máy ren do gia đình khó khăn về tài chính. Mối quan hệ căng thẳng giữa cha mẹ ông là nền tảng cho nhiều tác phẩm đầu tiên của ông.
Tháng 1 năm 1912, Lawrence gặp Frieda von Richthofen, vợ của một cựu giáo viên Đại học Nottingham và là mẹ của ba đứa trẻ. Họ ngay lập tức yêu nhau và cùng nhau đi sang Đức. Sau hai năm đi du lịch ở Đức và Ý, họ trở về Anh và kết hôn vào tháng 7 năm 1914. Đó là một cuộc hôn nhân sôi nổi ngay từ đầu và nó đã truyền cảm hứng cho Lawrence viết tập thơ “Xem kìa! Chúng ta đã làm được rồi” (Look! We Have Come Through, 1917).
Văn
*Chim công trắng The White Peacock, 1911)
*Kẻ xâm nhập (The Trespasser, 1912)
*Những đứa con trai và những người tình (Sons and Lovers, 1913)
*Cầu vồng (The Rainbow, 1915)
*Người đàn bà đang yêu (Women in Love, 1920)
*Cô gái lạc lối (The Lost Girl, 1920)
*Người tình của phu nhân Chatterley (Lady Chatterley's Lover, 1928)
*Thơ tình và những bài thơ khác (Love Poems and others, 1913)
*Xem kìa! Chúng ta đã làm được rồi (Look! We Have Come Through, 1917)
*Những bài thơ mới (New Poems, 1918)
*Những chú chim, những con thú và những đóa hoa (Birds, Beasts and Flowers, 1923)
*Tuyển tập thơ D H Lawrence (The Collected Poems of D H Lawrence, 1928)
*Những bài thơ cuối (Last Poems, 1932)
*Lửa và những bài thơ khác (Fire and other poems, 1940)
biết thương tiếc cho chính mình.
Con chim nhỏ chết cóng rơi xuống từ cành
mà không hề thấy tiếc cho chính nó.
sorry for itself.
A small bird will drop frozen dead from a bough
without ever having felt sorry for itself.
Bầu trời như rượu vang trong ánh mặt trời
Mặt trăng như cánh hoa vàng đang nở.
Tỏa sáng như những bông hoa đang nở
Như những bông hoa nhìn thấy lần đầu tiên.
The sky was green wine held up in the sun,
The moon was a golden petal between.
They shone, clear like flowers undone,
For the first time, now for the first time seen.
Cô nàng chua chát hỏi.
Em hỏi chẳng đúng lúc, đúng nơi
Chuyện tình cảm tế nhị như thế này
Tìm những cơ quan tối cao mà hỏi! –
Có lẽ nàng sẽ đập nó vào đầu tôi
Nhưng nàng nhìn thấy mình trong ấy
Khiến cho nàng bị mê hoặc hai giây
Trong khi tôi kịp thời bỏ chạy.
Please address these questions to the proper person!
Please make all requests to head-quarters!
In all matters of emotional importance
please approach the supreme authority direct! -
And she would have broken it over my head,
but she caught sight of her own reflection
and that held her spellbound for two seconds
while I fled.
Rằng trong biển tình yêu không thể sống
Chỉ là những mảnh muối của cuộc sống không tình.
cá heo nhảy quanh tàu của Dionysos
cột buồm có dây màu tím leo quanh
và chúng đi lên với màu tím của cầu vồng
nhảy lên rồi đắm chìm trong hạnh phúc
và biển đang làm tình với Dionysos
những chú cá voi con vui vẻ lượn tung tăng.
love cannot live, but only bare, salt splinters
of loveless life.
the dolphins leap round Dionysos’s ship
whose mast have purple vines,
and up they come with the purple dark of rainbows
and flip! they go! with the nose-dive of sheer delight:
and the sea is making love to Dionysos
in the bouncing of these small and happy whales.
Hắn đánh tôi bằng cái gì rất tối
Tôi kêu lên nhưng không ai nghe thấy
Tôi nằm im, không thể nói nên lời.
Tôi đã đi tìm nhưng không thấy dấu
Có thể đấy là giấc mơ cảnh báo
Rằng đã mất sự yên lặng của tôi.
And struck at me with something dark.
I cried, but no one could hear me,
I lay dumb and stark.
When I awoke this morning
I could find no trace;
Perhaps ’twas a dream of warning,
For I’ve lost my peace.
rằng nó là con vật săn mồi.
Nhưng cuối cùng nó đã
uống cho thỏa cơn say
không gửi máu tôi vào ngân hàng máu.
he's a beast of prey.
But after all
he only takes his bellyful,
he doesn't put my blood in the bank.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét