Richard Lovelace (9 tháng 12
năm 1617 – 1657) – nhà thơ Anh thế kỷ XVII. Những bài thơ dịch ra tiếng Việt dưới
đây là những bài thơ nổi tiếng nhất của ông thường xuyên được đưa vào các tuyển
tập thơ của nước Anh.
Tiểu sử
Richard Lovelace sinh ra trong một gia đình rất có thế lực. Cha của ông là một chủ đất lớn bị giết ở Tây Ban Nha trong cuộc bao vây Groenlo (1627) trong Chiến tranh Tám Mươi Năm (Eighty Years' War). Anh trai của ông, Francis Lovelace, là tỉnh trưởng thứ hai của tỉnh New York, thuộc địa Anh (nay là tiểu bang New York của Hoa Kỳ).
Ông học tại Trường Charterhouse và Đại học Oxford. Trong những năm sinh
viên Lovelace đã viết vở hài kịch “The Scholars” nổi tiếng khi đó. Sau khi hoàn
thành việc học, nhờ có sự giúp đỡ của một phu nhân trong triều, ông đã nhận được
danh hiệu Thạc sĩ Văn chương. Sau một thời gian sống ở Luân Đôn, rồi ở Kent,
ông tham gia vào các trận đánh ở Scotland trong các năm 1639-1640.
Năm 1642, với tư cách là đại diện cho Hạ viện, ông đệ trình đơn yêu cầu
đưa nhà vua Charles I trở lại ngai vàng. Tuy nhiên, lời thỉnh cầu của ông đã bị
lên án, và bản thân Lovelace bị giam trong một nhà tù ở Westminster. Trong tù,
ông đã viết một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của mình: “Gửi Althea từ
trong nhà tù”.
Là người dành tất cả tài sản của mình để giúp đỡ nhà vua và hỗ trợ quân
đội Hoàng gia, ông đã chết trong cảnh nghèo đói. Có thể là ông đã chết vì bệnh
lao. Ngày mất chính xác của ông vẫn chưa được biết.
2 bài thơ
GỬI LUCASTA NGÀY RA CHIẾN TRƯỜNG
Đừng nói rằng tôi người không tử tể
Khi bỏ đi từ tu viện linh thiêng
Của tình yêu em dịu dàng như thế
Để lao vào súng đạn của chiến tranh.
Vâng, quả thật bây giờ tôi theo đuổi
Kẻ địch của tôi trên bãi chiến trường
Và tôi ôm ấp một niềm tin mới
Bằng một thanh gươm, con ngựa, cái khiên.
Tôi thay đổi? Quả đúng là như thế
Nhưng mà tôi thay đổi cũng vì tình
Bởi nếu không giữ cho mình danh dự
Thì có khác nào tôi phản bội em.
To Lucasta, Going To The Wars
Tell me not (Sweet) I am unkind,
That from the nunnery
Of thy chaste breast and quiet mind
To war and arms I fly.
True, a new mistress now I chase,
The first foe in the field;
And with a stronger faith embrace
A sword, a horse, a shield.
Yet this inconstancy is such
As you too shall adore;
I could not love thee (Dear) so much,
Lov'd I not Honour more.
GỬI ALTHEA TỪ TRONG NHÀ TÙ
Khi trước cánh cổng nhà tù
Vị thần của Tình yêu bay đến
Và hiện ra trong yên lặng
Althea đứng trước mặt tôi
Tôi là tù nhân của đôi mắt này
Và mái tóc của em vàng óng
Thì những con chim giữa trời bay lượn
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Khi chúng tôi uống những chén rượu nho
Nơi không có nước dòng Thêm tĩnh lặng
Khi vòng hoa kết trên đầu cẩn trọng
Thề với tình yêu chung thủy muôn đời
Khi nỗi buồn dìm trong rượu đầy vơi
Mong những điều tốt đẹp kia sẽ đến
Thì những con cá bơi trong vực thẳm
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Khi tôi giống như con chim hồng tước
Đang hát về vị hoàng đế của tôi
Rằng hoàng đế của tôi thật tuyệt vời
Ngài nhân từ, uy nghiêm và trung thực
Vinh quang thay vị hoàng đế của tôi
Ngài vĩ đại bởi ngài đầy quyền lực
Thì những ngọn gió cuốn theo dòng nước
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Những tường đá hay song sắt cũng chẳng
Trở thành nhà tù với bản thân tôi
Tôi vẫn luôn tự do ở nơi này
Nếu tự do là điều tôi mong muốn
Nếu tự do vẫn sống trong hồn tôi
Trong tình yêu ngây thơ và tĩnh lặng
Thì chỉ thiên thần trên trời bay lượn
May ra là tự do được bằng tôi.
To Althea, from Prison
When Love with unconfined wings
Hovers within my gates,
And my divine Althea brings
To whisper at the grates;
When I lie tangled in her hair,
And fetter'd to her eye,
The birds that wanton in the air
Know no such liberty.
When flowing cups run swiftly round
With no allaying Thames,
Our careless heads with roses bound,
Our hearts with loyal flames;
When thirsty grief in wine we steep,
When healths and draughts go free,
Fishes, that tipple in the deep,
Know no such liberty.
When (like committed linnets) I
With shriller throat shall sing
The sweetness, mercy, majesty,
And glories of my king;
When I shall voice aloud how good
He is, how great should be,
Enlarged winds, that curl the flood,
Know no such liberty.
Stone walls do not a prison make,
Nor iron bars a cage;
Minds innocent and quiet take
That for an hermitage;
If I have freedom in my love,
And in my soul am free,
Angels alone that soar above,
Enjoy such liberty.
Richard Lovelace sinh ra trong một gia đình rất có thế lực. Cha của ông là một chủ đất lớn bị giết ở Tây Ban Nha trong cuộc bao vây Groenlo (1627) trong Chiến tranh Tám Mươi Năm (Eighty Years' War). Anh trai của ông, Francis Lovelace, là tỉnh trưởng thứ hai của tỉnh New York, thuộc địa Anh (nay là tiểu bang New York của Hoa Kỳ).
Khi bỏ đi từ tu viện linh thiêng
Của tình yêu em dịu dàng như thế
Để lao vào súng đạn của chiến tranh.
Kẻ địch của tôi trên bãi chiến trường
Và tôi ôm ấp một niềm tin mới
Bằng một thanh gươm, con ngựa, cái khiên.
Nhưng mà tôi thay đổi cũng vì tình
Bởi nếu không giữ cho mình danh dự
Thì có khác nào tôi phản bội em.
That from the nunnery
Of thy chaste breast and quiet mind
To war and arms I fly.
The first foe in the field;
And with a stronger faith embrace
A sword, a horse, a shield.
As you too shall adore;
I could not love thee (Dear) so much,
Lov'd I not Honour more.
Vị thần của Tình yêu bay đến
Và hiện ra trong yên lặng
Althea đứng trước mặt tôi
Tôi là tù nhân của đôi mắt này
Và mái tóc của em vàng óng
Thì những con chim giữa trời bay lượn
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Nơi không có nước dòng Thêm tĩnh lặng
Khi vòng hoa kết trên đầu cẩn trọng
Thề với tình yêu chung thủy muôn đời
Khi nỗi buồn dìm trong rượu đầy vơi
Mong những điều tốt đẹp kia sẽ đến
Thì những con cá bơi trong vực thẳm
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Đang hát về vị hoàng đế của tôi
Rằng hoàng đế của tôi thật tuyệt vời
Ngài nhân từ, uy nghiêm và trung thực
Vinh quang thay vị hoàng đế của tôi
Ngài vĩ đại bởi ngài đầy quyền lực
Thì những ngọn gió cuốn theo dòng nước
Không thể nào tự do được bằng tôi.
Trở thành nhà tù với bản thân tôi
Tôi vẫn luôn tự do ở nơi này
Nếu tự do là điều tôi mong muốn
Nếu tự do vẫn sống trong hồn tôi
Trong tình yêu ngây thơ và tĩnh lặng
Thì chỉ thiên thần trên trời bay lượn
May ra là tự do được bằng tôi.
Hovers within my gates,
And my divine Althea brings
To whisper at the grates;
When I lie tangled in her hair,
And fetter'd to her eye,
The birds that wanton in the air
Know no such liberty.
With no allaying Thames,
Our careless heads with roses bound,
Our hearts with loyal flames;
When thirsty grief in wine we steep,
When healths and draughts go free,
Fishes, that tipple in the deep,
Know no such liberty.
With shriller throat shall sing
The sweetness, mercy, majesty,
And glories of my king;
When I shall voice aloud how good
He is, how great should be,
Enlarged winds, that curl the flood,
Know no such liberty.
Nor iron bars a cage;
Minds innocent and quiet take
That for an hermitage;
If I have freedom in my love,
And in my soul am free,
Angels alone that soar above,
Enjoy such liberty.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét