Lewis Morris (23 tháng 1 năm
1833 – 12 tháng 11 năm 1907) – nhà thơ Anh, người sáu lần được đề cử giải Nobel
Văn học trong các năm 1902-1907.
Tiểu sử
Lewis Morris sinh ở Carmarthen ở tây nam xứ Wales trong gia đình của Lewis Edward Morris và Sophia Hughes. Từ năm 1841 đến năm 1847, ông học tại Trường Nữ hoàng Elizabeth (Queen Elizabeth's Grammar School). Năm 1847 được chuyển đến trường khác ở Cowbridge (Cowbridge Grammar School). Tại trường này Lewis đã giành được học bổng bằng cách viết một bài thơ về chủ đề Pompeii, bài thơ đã giành chiến thắng trong một cuộc thi.
Ông theo học các tác phẩm kinh điển tại Jesus College, Oxford, tốt nghiệp
năm 1856: là sinh viên đầu tiên trong ba mươi năm vượt qua kỳ thi sơ khảo và tổng
kết với số điểm cao nhất. Sau đó ông trở thành một luật sư. Năm 1868, ông kết
hôn với Florence Pollard. Ông được Nữ hoàng Victoria phong tước hiệp sĩ vào năm
1895, và được đề nghị phong tước “Nhà thơ Hoàng gia” (Poet Laureate) nhưng
không thành công, có thể do ông quen biết với nhà thơ Oscar Wilde lúc đó đang
dính vào Vụ tai tiếng Queensberry.
3 bài thơ
KHU VƯỜN BÊN BIỂN
Tôi biết một khu vườn nhỏ
Nơi có hoa huệ hoa hồng
Nơi tôi có thể lang thang
Từ buổi bình minh đến tối
Giá mà có ai đi cùng.
Trong vườn không có tiếng chim
Nhà nguyện và chuông chẳng có
Chỉ những cây táo trụi lá
Nhưng tiếng của những bước chân
Thì tôi vẫn nghe rõ ràng
Giống như những ngày xưa cũ.
Có tiếng sóng từ biển cả
Và hai con suối ở gần
Nước từ ngọn đồi xa xăm
Chảy về biển không ngừng nghỉ
Không có tiếng của bầy ong
Chẳng có con thuyền nào cả
Chỉ tiếng rì rào biển cả
Và tiếng vọng khắp khu vườn
Làm cho tôi khóc nức nở.
Tôi khóc suốt ngày suốt đêm
Bỏ qua những gì vui thú
Điếc và mù trước tất cả
Những gì thiên hạ đi tìm
Chỉ biết khóc cho phận số.
Dù đã yếu ớt chậm chạp
Tôi vẫn còn sức đi tìm
Trong vương quốc của thần chết
Một lối vào nơi hạnh phúc
Gương mặt không thể nào quên
Một lần đã thấy, đã hôn
Trong khu vườn bên biển biếc.
A Garden by the Sea
I know a little garden-close,
Set thick with lily and red rose,
Where I would wander if I might
From dewy morn to dewy night,
And have one with me wandering.
And though within it no birds sing,
And though no pillared house is there,
And though the apple-boughs are bare
Of fruit and blossom, would to God
Her feet upon the green grass trod,
And I beheld them as before.
There comes a murmur from the shore,
And in the close two fair-streams are,
Drawn from the purple hills afar,
Drawn down unto the restless sea:
Dark hills whose heath-bloom feeds no bee,
Dark shore no ship has ever seen,
Tormented by the billows green
Whose murmur comes unceasingly
Unto the place for which I cry.
For which I cry both day and night,
For which I let slip all delight,
Whereby I grow both deaf and blind,
Careless to win, unskilled to find,
And quick to lose what all men seek.
Yet tottering as I am and weak,
Still have I left a little breath
To seek within the jaws of death
An entrance to that happy place,
To seek the unforgotten face,
Once seen, once kissed, once reft from me
Anigh the murmuring of the sea.
LÒNG CAN ĐẢM
Kẻ biết uốn cong đầu gối
Để tìm lợi ích cho mình
Con đường cứ thế đi lên
Nhưng bạn đừng noi gương ấy.
Họ đạt mục đích của mình
Và họ trở nên giàu có
Nhưng đến cuối cùng vỡ lẽ
Họ không giành được trái tim.
Chỉ cần sống bằng lý trí
Không cần theo con đường kia
Đến lúc bạn sẽ nhận ra
Hồn mình tự do như gió.
Hãy chọn con đường dũng cảm
Sự thật cần được sẻ chia
Bạn hãy nói với mọi người
Ai mạo hiểm – người đó sống!
Courage!
THERE are who, bending supple knees,
Live for no end except to please,
Rising to fame by mean degrees;
But creep not thou with these.
They have their due reward; they bend
Their lives to an unworthy end
On empty aims the pains expend
Which had knit close a friend.
But be not thou as these, whose mind
Is to the passing hour confined;
Let no ignoble fetters bind
Thy soul, as free as wind.
Stand upright, speak thy thought, declare
The truth thou hast that all may share;
Be bold, proclaim it everywhere:
They only live who dare!
GƯƠNG CỦA TÌNH YÊU
Anh nhìn thấy sự phản chiếu của mình
Hiện ra lung linh trong đôi mắt em
Sau hàng mi của đôi mắt run rẩy
Là vẻ ngây thơ, nỗi sợ vô tình.
Giống như Eva ngày trước ngại ngùng
Khi đắm mình trong hoa cỏ thiên đường
Tâm hồn dịu dàng của em nhút nhát
Và âu lo trước tiếng gọi của tình.
Giống như con nai đang ngủ trong rừng
Bỗng nghe ra đâu đó có bước chân
Liền vùng dậy và vội vàng chạy trốn
Không biết rằng có gì đáng sợ không.
Đừng sợ gì em hãy mở cõi lòng
Em hãy nhìn vào đôi mắt của anh
Và hãy để cho tâm hồn hòa nhập
Anh ở trong em, em ở trong anh.
Mặt đối mặt, hai người trong tấm gương
Thành một dãy đến vô tận vô cùng
Và hàng cột không bao giờ kết thúc
Thành một gian phòng tráng lệ thần tiên.
Hai tâm hồn nhập vào thành một hồn
Trở nên hoàn hảo và tuyệt vời hơn
Sống bằng sự chết, chết bằng sự sống
Vượt ra ngoài ngoài giới hạn của thời gian.
Love's Mirror
I SEE myself reflected in thine eyes,
The dainty mirrors set in golden frame
Of eyelash, quiver with a sweet surprise,
And most ingenuous shame.
Like Eve, who hid her from the dread command
Deep in the dewy blooms of paradise ;
So thy shy soul, love calling, fears to stand
Discovered at thine eyes.
Or, like a tender little fawn, which lies
Asleep amid the fern, and waking, hears
Some careless footstep drawing near, and flies,
Yet knows not what she fears :
So shrinks thy soul ; but, dearest, shrink not so ;
Look thou into mine eyes as I in thine :
So our reflected souls shall meet and grow,
And each with each combine
In something nobler ; as when one has laid
Opposite mirrors on a cottage wall ;
And lo ! the never-ending colonnade,
The vast palatial hall.
So our twin souls, by one sweet suicide,
Shall fade into an essence more sublime;
Living through death, and dying glorified,
Beyond the touch of time.
Lewis Morris sinh ở Carmarthen ở tây nam xứ Wales trong gia đình của Lewis Edward Morris và Sophia Hughes. Từ năm 1841 đến năm 1847, ông học tại Trường Nữ hoàng Elizabeth (Queen Elizabeth's Grammar School). Năm 1847 được chuyển đến trường khác ở Cowbridge (Cowbridge Grammar School). Tại trường này Lewis đã giành được học bổng bằng cách viết một bài thơ về chủ đề Pompeii, bài thơ đã giành chiến thắng trong một cuộc thi.
Nơi có hoa huệ hoa hồng
Nơi tôi có thể lang thang
Từ buổi bình minh đến tối
Giá mà có ai đi cùng.
Nhà nguyện và chuông chẳng có
Chỉ những cây táo trụi lá
Nhưng tiếng của những bước chân
Thì tôi vẫn nghe rõ ràng
Giống như những ngày xưa cũ.
Và hai con suối ở gần
Nước từ ngọn đồi xa xăm
Chảy về biển không ngừng nghỉ
Không có tiếng của bầy ong
Chẳng có con thuyền nào cả
Chỉ tiếng rì rào biển cả
Và tiếng vọng khắp khu vườn
Làm cho tôi khóc nức nở.
Bỏ qua những gì vui thú
Điếc và mù trước tất cả
Những gì thiên hạ đi tìm
Chỉ biết khóc cho phận số.
Tôi vẫn còn sức đi tìm
Trong vương quốc của thần chết
Một lối vào nơi hạnh phúc
Gương mặt không thể nào quên
Một lần đã thấy, đã hôn
Trong khu vườn bên biển biếc.
Set thick with lily and red rose,
Where I would wander if I might
From dewy morn to dewy night,
And have one with me wandering.
And though no pillared house is there,
And though the apple-boughs are bare
Of fruit and blossom, would to God
Her feet upon the green grass trod,
And I beheld them as before.
And in the close two fair-streams are,
Drawn from the purple hills afar,
Drawn down unto the restless sea:
Dark hills whose heath-bloom feeds no bee,
Dark shore no ship has ever seen,
Tormented by the billows green
Whose murmur comes unceasingly
Unto the place for which I cry.
For which I let slip all delight,
Whereby I grow both deaf and blind,
Careless to win, unskilled to find,
And quick to lose what all men seek.
Still have I left a little breath
To seek within the jaws of death
An entrance to that happy place,
To seek the unforgotten face,
Once seen, once kissed, once reft from me
Anigh the murmuring of the sea.
Để tìm lợi ích cho mình
Con đường cứ thế đi lên
Nhưng bạn đừng noi gương ấy.
Và họ trở nên giàu có
Nhưng đến cuối cùng vỡ lẽ
Họ không giành được trái tim.
Không cần theo con đường kia
Đến lúc bạn sẽ nhận ra
Hồn mình tự do như gió.
Sự thật cần được sẻ chia
Bạn hãy nói với mọi người
Ai mạo hiểm – người đó sống!
Live for no end except to please,
Rising to fame by mean degrees;
But creep not thou with these.
Their lives to an unworthy end
On empty aims the pains expend
Which had knit close a friend.
Is to the passing hour confined;
Let no ignoble fetters bind
Thy soul, as free as wind.
The truth thou hast that all may share;
Be bold, proclaim it everywhere:
They only live who dare!
Hiện ra lung linh trong đôi mắt em
Sau hàng mi của đôi mắt run rẩy
Là vẻ ngây thơ, nỗi sợ vô tình.
Khi đắm mình trong hoa cỏ thiên đường
Tâm hồn dịu dàng của em nhút nhát
Và âu lo trước tiếng gọi của tình.
Bỗng nghe ra đâu đó có bước chân
Liền vùng dậy và vội vàng chạy trốn
Không biết rằng có gì đáng sợ không.
Em hãy nhìn vào đôi mắt của anh
Và hãy để cho tâm hồn hòa nhập
Anh ở trong em, em ở trong anh.
Thành một dãy đến vô tận vô cùng
Và hàng cột không bao giờ kết thúc
Thành một gian phòng tráng lệ thần tiên.
Trở nên hoàn hảo và tuyệt vời hơn
Sống bằng sự chết, chết bằng sự sống
Vượt ra ngoài ngoài giới hạn của thời gian.
The dainty mirrors set in golden frame
Of eyelash, quiver with a sweet surprise,
And most ingenuous shame.
Deep in the dewy blooms of paradise ;
So thy shy soul, love calling, fears to stand
Discovered at thine eyes.
Asleep amid the fern, and waking, hears
Some careless footstep drawing near, and flies,
Yet knows not what she fears :
Look thou into mine eyes as I in thine :
So our reflected souls shall meet and grow,
And each with each combine
Opposite mirrors on a cottage wall ;
And lo ! the never-ending colonnade,
The vast palatial hall.
Shall fade into an essence more sublime;
Living through death, and dying glorified,
Beyond the touch of time.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét