Hilaire Belloc (tên đầy đủ Joseph Hilaire Pierre René Belloc, 27
tháng 7 năm 1870 – 16 tháng 7 năm 1953) – nhà văn, nhà thơ Anh gốc Pháp. Belloc
là một trong những nhà văn Anh xuất sắc nhất đầu thế kỷ 20 với gần 150 đầu
sách, tuy nhiên ông nổi tiếng trước hết nhờ những cuốn thơ viết cho trẻ em mà
ngày nay cả trẻ em lẫn người lớn vẫn đọc một cách thích thú.
Tiểu sử
Belloc sinh ở Saint-Cloud, ngoại ô Paris. Cha ông là người Pháp, mẹ là
người Anh. Chị gái Marie Belloc cũng trở thành nhà văn. Thời thơ ấu sống ở Anh,
tại làng Slindon ở hạt Tây Sussex. Sau này ông đã thể hiện nỗi nhớ vùng đất này
trong nhiều bài thơ của mình.
Mẹ của ông, Bessie Rayner Parkes (1829-1925) cũng là một nhà văn và là
cháu gái của nhà hóa học người Anh Joseph Priestley. Năm 1867 bà kết hôn với luật
sư Louis Belloc, con trai của họa sĩ người Pháp Jean Hilaire Belloc. Năm 1872,
5 năm sau khi cưới, Louis Belloc qua đời, đồng thời với sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán khiến gia đình trở nên nghèo túng. Người góa phụ trẻ cùng con trai
và con gái Marie trở về Anh, nơi Hilaire đã trải qua thời niên thiếu và thời tuổi
trẻ của mình, ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội Pháp.
Sau khi tốt nghiệp trung học tại Oratory School vào năm 1891 Belloc phục
vụ hết thời hạn nghĩa vụ quân sự với tư cách là một công dân Pháp tại một trung
đoàn pháo binh gần Toul. Belloc là người có thể lực tốt, từng đi bộ nhiều nơi ở
Anh và châu Âu. Khi tán tỉnh người vợ tương lai Elodie Hogan (1868–1914), một
người Mỹ mà ông gặp lần đầu tiên vào năm 1890, Belloc đã đi bộ suốt quãng đường
từ miền trung tây Hoa Kỳ đến nhà của cô ở bắc California. Hai người kết hôn năm
1896.
Năm 1906 ông mua một ngôi nhà có tên là King's Land tại Shipley, hạt
Tây Sussex, nơi ông đã nuôi nấng con cái của mình và sống cho đến trước khi qua
đời không lâu. Elodie và Belloc có 5 người con trước khi bà qua đời vào năm
1914 vì bệnh cúm. Sau khi bà qua đời, Belloc mặc áo tang cho phần còn lại của
cuộc đời mình và giữ phòng của bà đúng như lúc bà để lại.
Belloc bị đột quỵ vào năm 1941 và không bao giờ hồi phục sau đó. Ông mất
ngày 16 tháng 7 năm 1953 tại Viện dưỡng lão Mount Alvernia ở Surrey do bị bỏng
và sốc sau cú ngã khi đặt một khúc gỗ vào lò sưởi tại King's Land. Thi hài của
ông được chôn cất tại Đền thờ Đức Mẹ An ủi ở West Grinstead thuộc hạt Tây
Sussex, nơi ông thường xuyên tham dự Thánh lễ với tư cách là một giáo dân.
31 bài thơ
SÁCH VỀ ĐỘNG VẬT CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ HƯ
Lời mở đầu
Tôi gọi bạn là đứa trẻ hư
Và đặt làm tiêu đề cuốn sách
Bạn thô lỗ, hoang dã. Nhưng nếu khác
Là điều không có ở tuổi thơ.
Tôi hy vọng là bạn hiểu đúng
Những bài học từ cuốn sách này
Để bạn có thể trong phút giây
Trở nên nhu mì và nhã nhặn.
Khi bạn bắt đầu một trò chơi
Thì nhớ phải quan sát cẩn thận
Đừng chạy lung tung, đừng nhảy cẫng
Giống như chuột túi Kangaroo.
Đừng như những đứa trẻ lang thang
Ăn đừng như lợn nhai chóp chép
Khi đi ngủ bạn đừng khụt khịt
Giống như những chú chó con.
Đừng bắt chước điệu bộ con khỉ
Hay bắt chước con gấu biếng lười
Hãy siêng năng chăm chỉ vui tươi
Đầu tóc gọn gàng và sạch sẽ.
Biết kiểm soát hành động của mình
Để người ta nói lời về bạn:
“Bé giống như con mèo xinh xắn
Bé giống như con cú thông minh”.
Introduction: The Bad Child's
Book Of Beasts
I call you bad, my little child,
Upon the title page,
Because a manner rude and wild
Is common at your age.
The Moral of this priceless work
(If rightly understood)
Will make you - from a little Turk -
Unnaturally good.
Do not as evil children do,
Who on the slightest grounds
Will imitate the Kangaroo,
With wild unmeaning bounds:
Do not as children badly bred,
Who eat like little Hogs,
And when they have to go to bed
Will whine like Puppy Dogs:
Who take their manners from the Ape,
Their habits from the Bear,
Indulge the loud unseemly jape,
And never brush their hair.
But so control your actions that
Your friends may all repeat.
'This child is dainty as the Cat,
And as the Owl discreet.'
ĐỀ TRONG SÁCH TẶNG CHO TRẺ EM
Này các con! Đừng vứt cuốn sách này
Hãy gắng giữ mình trước bao tật xấu
Đừng đem cắt những bức hình khỏi đây
Mà hãy giữ sách này như kho báu.
Các con là người kế thừa mọi thứ
Tạo ra bằng trí tuệ của ông cha
Những bàn tay xinh đẹp như bông hoa
Không để xé những trang sách này nhé.
Những gì tốt đẹp con nên nhận lấy
Và biết bỏ lại những gì xấu xa
Biết học hỏi khi đưa bàn tay ra
Để bắt tay với những người lớn tuổi.
Còn trước khi đi ngủ nhớ đừng quên
Đưa bàn tay nhỏ bé cầu nguyện Chúa
Hãy cầu nguyện cho những ai đang ở
Và đang đi vào xứ sở thần tiên.
On the Gift of a Book to a Child
Child! do not throw this book about!
Refrain from the unholy
pleasure
Of cutting all the pictures out!
Preserve it as your chiefest
treasure.
Child, have you never heard it said
That you are heir to all the
ages?
Why, then, your hands were never made
To tear these beautiful thick
pages!
Your little hands were made to take
The better things and leave
the worse ones:
They also may be used to shake
The Massive Paws of Elder
Persons.
And when your prayers complete the day,
Darling, your little tiny
hands
Were also made, I think, to pray
For men that lose their
fairylands.
CHIM DODO
Chim dodo thường đi dạo loanh quanh
Đón ánh nắng mặt trời và hít thở.
Mặt trời vẫn sưởi ấm trên đồng cỏ –
Nhưng dodo từ lâu đã không còn!
Chim dodo không còn ở trần gian
Tiếng của chim đã im lìm mãi mãi –
Tuy nhiên bạn vẫn có thể nhìn thấy
Mỏ và xương chim trong những bảo tàng.
_____________
*Dodo (tiếng Latin: Raphinae) – là loài chim không bao giờ bay sống
trên quần đảo Mascarene (giữa Ấn Độ dương) đã tuyệt chủng do bị con người săn bắt
và do các loài động vật có vú du nhập ăn thịt. Chim Dodo cũng là một nhân vật trong
cuốn sách nổi tiếng “Alice ở xứ sở thần tiên” của Lewis Carroll. Chính nhờ cuốn
sách này mà dodo được biết đến rộng rãi ở châu Âu và thậm chí đầu thế kỷ 19 nhiều
người tin rằng sự tồn tại của loài chim này là một huyền thoại.
The Dodo
The Dodo used to walk around,
And take the sun and air.
The sun yet warms his native ground—
The Dodo is not there!
The voice which used to squawk and squeak
Is now forever dumb —
Yet may you see his bones and beak
All in the Mu-se-um.
CON BÒ TÂY TẠNG
Tôi nghĩ rằng trẻ em rất thích bò
Bởi không cần kỹ năng gì đặc biệt
Cưỡi trên lưng bò chỉ là chuyện vặt
Còn dễ dàng hơn khi dắt bò đi.
Người Tây Tạng đã sống từ xa xưa
Trên vùng cao nguyên hoang vu bão tuyết
Con bò trở thành vật nuôi thân thiết
Người Tây Tạng biết rất rõ điều này.
Con bảo bố mua cho một con bò
Nếu như người bố của con giàu có
Thì bố sẽ mua ngay, mà có thể
Sẽ không mua, nếu như bố ky bo.
The Yak
As a friend to the children commend me the Yak.
You will find it exactly the
thing.
It will carry and fetch, you can ride on its back,
Or lead it about with a
string.
The Tartar who dwells on the plains of Tibet
(A desolate region of snow)
Has for centuries made it a nursery pet,
And surely the Tartar should
know!
Then tell your papa where the Yak can be got,
If he is awfully rich
He will buy you the creature – or else he will not.
(I cannot be positive which.)
CHIM KỀN KỀN
Kền kền thường chỉ ăn một bữa
Đó là lý do tại vì sao
Kền kền không được như chúng ta
Những người luôn mạnh khỏe.
Mắt chim mờ, còn đầu chim trơ trụi
Và chim cứ ngày một gầy đi
Đó cũng là bài học cho chúng ta
Cần ăn đủ: sáng, trưa và tối!
The Vulture
The Vulture eats between his meals,
And that's the reason why
He very, very rarely feels
As well as you or I.
His eye is dull, his head is bald,
His neck is growing thinner.
Oh, what a lesson for us all
To only eat at dinner!
CON TRĂN
Tôi khuyên bạn không nên nuôi trăn
Nó hay mắc bệnh sởi, đau mắt hột
Bạn sẽ cảm thấy khó chịu vô cùng.
Nhưng nếu như bạn thực sự muốn
Nuôi trăn để trang trí nhà mình
Thì bạn tự mình quyết đinh.
Nhưng phải để trăn tránh xa tiếng nhạc
Và nếu trong cơn nổi loạn điên cuồng
Bạn phải trừng phạt nó rất nghiêm khắc.
Tôi có người cô ở Yucatan
Mua con trăn từ một người nào đó
Và nuôi giữ nó như con vật cưng.
Cô bị chết, bởi vì cô ấy quên
Những quy tắc nhỏ nhặt và đơn giản
Bản chất rắn vẫn sống trong con trăn.
The Python
A python I should not advise –
It needs a doctor for its eyes
And has the measles yearly.
However, if you feel inclined
To get one (to improve your mind ,
And not from fashion merely),
Allow no music near its cage;
And when it flies into a rage
Chastise it, most severely.
I had an aunt in Yucatan
Who bought a Python from a man
And kept it for a pet.
She died , because she never knew
Those simple little rules and few –
The Snake is living yet.
SƯ TỬ
Sống ở nơi sa mạc
Sư tử có bờm cao
Và to lớn cái đầu
Cái miệng rất khủng khiếp.
Tiếng gầm ai cũng sợ
Móng sư tử để trần
Và trẻ em thì không
Chơi đùa cùng sư tử.
The Lion
The Lion, the Lion, he dwells in the Waste,
He has a big head and a very small waist;
But his shoulders are stark, and his jaws they are grim,
And a good little child will not play with him.
HỔ
Hổ lại hoàn toàn khác
Là những chú mèo con
Những đứa trẻ nhỏ nhất
Cũng có thể chơi cùng.
Những bà mẹ đông con
Đem hổ về nuôi nấng
Thì hổ sẽ trả ơn
Cho những gì phí tổn.
The Tiger
The tiger, on the other hand,
Is kittenish and mild,
And makes a pretty playfellow
For any little child.
And mothers of large families
(Who claim to common sense)
Will find a tiger well repays
The trouble and expense.
KHỈ ĐẦU CHÓ LỚN
Một con khỉ đầu chó
Ở vùng Cariboo
Không mặc áo quần gì
(Mà không hề xấu hổ).
Nhưng nếu mặc áo quần
Để bộ râu dài nữa
Thì chú khỉ đầu chó
Sẽ thành một Quý ông!
The Big Baboon
The Big Baboon is found upon
The plains of Cariboo:
He goes about with nothing on
(A shocking thing to do).
But if he dressed up respectably
And let his whiskers grow,
How like this Big Baboon would be
To Mister So-and-so!
CÁ VOI
Những con cá voi ở vùng cực
Không phải thực phẩm để lên bàn
Vì bạn không thể nướng hoặc luộc
Chế biến thành những món ăn.
Nhưng có thể lấy mỡ cá voi
Chế biến nó thành chất béo
Rồi bạn dùng sản phẩm này
Thay cho dầu ăn từ hạt cải.
Những sự kiện này cần phải biết
Những ai muốn học ở Oxford
Để chứng minh cho vị giáo sư
Mình sẽ là một nhà khoa học.
The Whale
The Whale that wanders round the Pole
Is not a table fish.
You cannot bake or boil him whole
Nor serve him in a dish;
But you may cut his blubber up
And melt it down for oil.
And so replace the colza bean
(A product of the soil).
These facts should all be noted down
And ruminated on,
By every boy in Oxford town
Who wants to be a Don.
CỪU XỨ UÊN
Những con cừu xứ Uên
Thuộc loài ngu ngốc nhất
Chuyện trò không sâu sắc
Nhưng khuôn mặt dễ thương!
The Welsh Mutton
The Cambrian Welsh or Mountain Sheep
Is of the Ovine race,
His conversation is not deep,
But then — observe his face!
CON VOI
Khi người ta nhắc đến con thú này
Có một điều làm người ta kinh ngạc
Nó có cái đuôi rất ngắn phía sau
Và một cái vòi thật dài phía trước.
The Elephant
When people call this beast to mind,
They marvel more and more
At such a little tail behind,
So large a trunk before.
GẤU BẮC CỰC
Gấu Bắc cực không nhận biết
Cái lạnh cắt da cắt thịt
Vì gấu có một bộ lông
Mà tôi cũng ước cho mình!
The Polar Bear
The Polar Bear is unaware
Of cold that cuts me through:
For why? He has a coat of hair.
I wish I had one too!
CON NHÍM
Có phải bạn từng đánh con nhím không?
Khổ thân bạn là người không hạnh phúc!
Còn nếu bạn từng đánh nhím hai lần
Than ôi! Bạn là một Tupto-philist*.
Kẻ yếu hơn thì bạn cần bảo vệ
Chứ đánh nó thì đó là lỗi lầm
Và tệ hơn – khi bạn đánh con thú
Có những chiếc kim châm ở trên lưng.
______________
*Từ tiếng Hy Lạp cổ τυπτω = Tôi đánh; và φιλεω = Tôi yêu, có nghĩa là
người thích đánh. Từ này không có trong tiếng Hy Lạp cổ điển, cũng như không xuất
hiện ở các nhà văn thời Phục Hưng cũng như ở bất kỳ nơi nào khác (chú thích của
tác giả).
The Porcupine
What! would you slap the Porcupine?
Unhappy child – desist!
Alas! that any friend of mine
Should be Tupto-philist.
To strike the meanest and the least
Of creatures is a sin,
How much more bad to beat a beast
With prickles on its skin.
_____________
*From τυπτω=I strike; φιλεω=I love; one that loves to strike. The word
is not found in classical Greek, nor does it occur among the writers of the
Renaissance—nor anywhere else.
TÊ GIÁC
Da của bạn xấu lắm nghe tê giác
Tôi với bạn không hề có cảm tình
Sừng của bạn ở nơi không bình thường
Bạn là con thú trông rất gớm ghiếc.
To A Rhinoceros
Rhinoceros, your hide looks all undone,
You do not take my fancy in the least:
You have a horn where other brutes have none:
Rhinoceros, you are an ugly beast.
BỌ CẠP
Bọ cạp đen như bồ hóng
Đã thế lại rất thích cắn
Đêm mà nó bò lên giường
Làm cho người ta phát hoảng.
The Scorpion
The Scorpion is as black as soot,
He dearly loves to bite;
He is a most unpleasant brute
To find in bed at night.
HÀ MÃ
Để bắn con hà mã
Phải dùng đạn bạch kim
Bởi dùng đạn bình thường
Da chỉ bị xước nhẹ.
The Hippopotamus
I shoot the Hippopotamus
With bullets made of platinum,
Because if I use leaden ones
His hide is sure to flatten ’em.
BUỔI SỚM MAI
Trăng một bên, bình minh ở một bên
Bình minh là anh, trăng là chị gái
Trăng bên trái, còn bình minh bên phải
Chào buổi sáng người anh, chúc chị gái ngủ ngon.
The Early Morning
The moon on the one hand, the dawn on the other;
The moon is my sister, the dawn is my brother.
The moon on my left and the dawn on my right-
My brother, good morning; my sister, good night.
TAI HẠI TỪ PHỤ NỮ
Nếu những tai hại đến từ phụ nữ
Đem đóng vào thùng và vứt xuống sông
Thì cái ác không còn trên thế giới
Và đàn ông cãi nhau cũng không cần!
If all the harm the women do
If all the harm the women do
Were put into a barrel
And taken out and drowned in Looe
Why, men would never quarrel!
OBEAM LIBENS
Em cứ chửi tôi nhưng hãy nhớ rằng
Trong thơ mình tượng đài em tôi dựng
Nhưng nếu em nói những lời âu yếm
Thì tôi sẽ đem đốt hết thơ mình.
Obeam Libens
Insult, despise me; what you can’t prevent
Is that my verse shall be your monument.
But, Oh my torment, if you treat me true
I’ll cancel every line, for love of you.
VỀ SÁCH CỦA TÔI
Khi tôi chết, hy vọng người ta sẽ nói rằng:
“Ông nhiều tội lỗi nhưng người đời đọc sách ông”.
On His Books
When I am dead, I hope it may be said:
“His sins were scarlet, but his books were read.”
MỆT MỎI
Tình và Thơ – hai thứ làm tôi mệt
Nhưng Tiền cho tôi niềm vui mọi lúc.
Fatigue
I’m tired of Love: I’m still more tired of Rhyme.
But Money gives me pleasure all the time.
TÌNH YÊU BUỒN
Tình yêu buồn, nhưng buồn hơn khi tình chẳng có
Và yêu mà không được yêu mới là điều tai họa.
From the Same
Love’s self is sad. Love’s lack is sadder still.
But loved unloved, O, that’s the greatest ill!
VỀ ĐÔI MẮT
Đôi mắt đen như mời gọi, đôi mắt như ngọc lam
Hứa hẹn thiên đường, nhưng mắt em màu xanh.
On Eyes
Dark eyes adventure bring; the blue serene
Do promise paradise: and yours are green.
VỀ ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI
Tôi giống như đồng hồ mặt trời quay ngược
Trả năm mươi đồng cho cô tình nhân dại dột.
On Another
I am a sundial, turned the wrong way round.
I cost my foolish mistress fifty pound.
CHỮ KHẮC TRÊN ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI
Trườn đi chiếc bóng, đánh dấu sự già nua của tôi.
Tôi không thể ngăn cản ngươi dù chỉ một phút giây.
On a Sundial
Creep, shadow, creep: my aging hours tell.
I cannot stop you, so you may as well.
GẦN GŨI
Một giọt máu đào hơn ao nước lã -
Và mãi mãi sẽ vẫn là như thế.
Kinship
Blood is thicker than water –
And so it oughter.
THỜI GIAN CHỮA LÀNH
Anh tự hào – dù trước đây xấu hổ –
Rằng em là người anh yêu hơn tất cả.
Time Curses All
It was my shame, and now it is my boast,
That I have loved you rather more than most.
MANG THEO MÌNH
Thơ, văn xuôi và những lời nguyền rủa
Hilary mang theo mình xuống mộ.
His prose and his verse
His prose and his verse, and a touch of curse
Will accompany Hilary up to his Hearse.
TRÒ CHUYỆN VỀ THƠ DỞ
William, thơ cậu
Quả đa dạng vô cùng
Một số bài – thơ dở
Số còn lại – tệ hơn.
Talking on Bad Verse
William, you vary greatly in your verse;
Some’s none too good, but all the rest is worse.
QUYỀN THẾ CỦA ÔNG
Với người già – người ta thường nói rằng
Hút xì gà có hại cho sức khỏe
Uống rượu nặng thì lại còn tệ nữa
Nhưng có một thứ nguy hiểm vô cùng
Không có gì chết người bằng cảm lạnh.
His Lordship
I have often been credibly told,
That when people are awfully old
Though cigars are a curse
And strong waters are worse
There is nothing so fatal as cold.