Sir Edmund William Gosse (21
tháng 9 năm 1849 – 16 tháng 5 năm 1928) –
nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình người Anh.
Tiểu sử
Edmund Goss là con trai duy nhất của nhà tự nhiên học nổi tiếng Philip
Henry Goss và họa sĩ kiêm nhà thơ Emily Bowes. Khi Goss được tám tuổi, mẹ ông
qua đời vì bệnh ung thư. Sau đó, hai cha con chuyển đến Devon. Cuộc sống với
cha rất căng thẳng, bởi cha ông nhìn thấy tương lai của Edmund là ở trong tôn
giáo. Sau đó, Edmund Goss kể lại thời thơ ấu của mình trong cuốn “Cha và con”
(Father and Son, 1907), cuốn sách mà ông coi là “bản tường thuật về cuộc đấu
tranh giữa hai tính khí, hai ý thức và thực tế là hai thời đại”.
Năm mười tám tuổi, Edmund cắt đứt quan hệ với cha mình. Từ năm 1867 đến
năm 1875, ông làm trợ lý thư viện tại Bảo tàng Anh. Năm 1870, ông gặp nhà thơ
và họa sĩ tiền Raphael, William Bell Scott và họ thường xuyên gặp gỡ. Sau này
Goss trở thành người viết tiểu sử đầu tiên của Swinburne. Cùng năm, Goss thực
hiện một chuyến đi đến Scotland và gặp Robert Louis Stevenson, người đã trở
thành bạn suốt đời của ông. Năm sau, ông đến thăm Na Uy, nơi ông bắt đầu làm
quen với các tác phẩm của Henrik Ibsen, người mà sau này ông đã trao đổi thư từ.
Ông đã dịch một số tác phẩm của Ibsen ra tiếng Anh và sau khi Isbel qua đời,
ông đã viết tiểu sử hoàn chỉnh đầu tiên về nhà viết kịch vĩ đại của Na Uy.
Năm 1875, Edmund Goss bắt đầu làm phiên dịch cho Bộ Thương mại và giữ
chức vụ này cho đến năm 1904. Công việc này giúp ông có thời gian sáng tác và
có thu nhập ổn định. Từ năm 1884 đến năm 1890, Goss giảng dạy về văn học Anh tại
Cao đẳng Trinity, Cambridge mặc dù ông không có bằng cấp. Đại học Cambridge đã
trao bằng thạc sĩ danh dự cho ông vào năm 1886.
Gosse kết hôn với Ellen Epps (1850 – 1929), một họa sĩ trẻ thuộc nhóm
Tiền Raphael, là con gái của George Napoleon Epps. Họ có một cuộc hôn nhân hạnh
phúc kéo dài hơn 50 năm và có ba người con.
Trong những năm cuối đời ông làm cố vấn cho Siegfried Sassoon. Goss
cũng duy trì tình bạn với André Gide và John Addton Symonds. Năm 1912 ông nhận
được danh hiệu “Order of the Bath” và năm 1925 ông được phong tước hiệp sĩ.
Edmund William Gosse mất ngày 16 tháng 5 năm 1928 tại Luân Đôn.
2 bài thơ
BALLAD VỀ CÁC THÀNH PHỐ ĐÃ CHẾT
Gửi A. L.
Những thành phố ở đồng bằng giờ đâu?
Những đền thờ của Bethel giờ đâu tá?
Và thành Calah của Tubal-Cain?
Và xứ Shinar, khi vua Amraphel
Đã mang quân ra trận và gục ngã
Vào mồi nhử, những hố nhờn bằng nhựa
Ở Siddim, xuống địa ngục lúc sau
Những thành phố thời xưa cũ giờ đâu?
Ngôi đền vĩ đại ở Karnak giờ đâu
Vẻ hùng vĩ trên những hàng cột đá?
Và thành phố Luxor hoang tàn giữa
Những dòng chữ thiêng im lặng không lời?
Chỉ tiếng chó rừng và tiếng cú vọ thôi
Những con rắn đen thui chui trong đá
Như trong vỏ sò âm thanh buồn tẻ
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
Và Kinh đô Shushan trắng xóa giờ đâu
Nơi hoàng hậu Vashti xin chồng dự tiệc
Người Do Thái mang những đồ cống nạp
Cho thủ quĩ Mithridath – ngũ cốc và dầu
Còn Nehemiah cảm thấy mừng vui
Được truyền cảm hứng bằng lời của Chúa
Để quay về thành phố linh thiêng cũ?
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
LỜI GỬI
Hoàng tử ơi tiếng chuông vọng u hoài
Về những nhọc nhằn và biết bao tội ác
Con sóng lãng quên dâng lên tràn ngập:
Những thành phố xưa giờ ở đâu rồi?
______________
*Vì đây là những thành phố cổ trong Kinh Thánh nên chúng tôi phiên âm
theo bản Kinh Thánh tiếng Việt, tuy nhiên trong các bản dịch Kinh Thánh khác
nhau thì mỗi nơi phiên âm một kiểu, chưa có sự thống nhất. Do vậy trong bản dịch
thơ chúng tôi để tên riêng theo nguyên bản, chỉ phiên âm ở phần chú thích và dẫn
nguồn theo bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt phổ biến nhất hiện nay.
1) Những thành phố ở đồng bằng – đây là hai thành phố: Sô-đôm và
Giô-mô-sơ trong Kinh Thánh.
2) Bethel (Bê-tên) – thành phố ở phía bắc Giê-su-xa-lem, tên cũ là
Lu-xơ (Sáng Thế Ký: 28,19).
3) Calah (Ca-lách) – một trong những thành phố do Nim-rốt lập nên (Sáng
Thế Ký: 10,11).
4) Tubal-Cain (Tu-banh-Ca-in) – một người thợ rèn được nhắc đến ở (Sáng
Thế Ký: 4,22).
5) Shinar (Si-nê-a) – vùng đất của hạ nguồn hai con sông Tigris và
Euphrates (Sáng Thế Ký: 10,11).
6) Amraphel (Am-ra-phên) – vua của Si-nê-a, người đem quân đến đánh
Sô-đôm và Giô-mô-sơ, bắt cóc Lót. (Sáng Thế Ký: 14,1-12).
7) Siddim (Si-điêm) – thung lũng có các thành phố Sô-đôm và Giô-mô-sơ,
nay là một phần phía nam của biển Chết.
8) Karnak và Luxor – là những thành phố ở Ai Cập cổ đại.
9) Shushan (Su-sơ theo phiên âm Kinh Thánh; Susa theo Wikipedia tiếng
Việt) – là thành phố, kinh đô cổ ở Ba Tư (Nê-hê-mi 1,1).
10) Vashti (hoàng hậu Vả-thi) – người đã làm trái ý muốn của chồng mình
là vua Ba Tư để hiện diện trong một bữa tiệc mà theo quy định thì phụ nữ không
được phép, vì vậy bà bị phế truất. Esther (Ê-xơ-tê) thế chỗ. (Ê-xơ-tê 1, 12).
11) Mithridath – là thủ quỹ của vua Ba Tư Cyrus.
12) Nehemiah (Nê-hê-mi) – một trong những thủ lĩnh bị đày về
Giê-su-sa-lem (E-xơ-ra 2, 2).
The Ballade of Dead Cities
To A. L.
Where are the cities of the plain?
And where the shrines of rapt Bethel?
And Calah built of Tubal-Cain?
And Shinar whence King Amraphel
Came out in arms and fought, and fell,
Decoyed into the pits of slime
By Siddim, and sent sheer to hell;
Where are the cities of old time?
Where now is Karnak, that great fane,
With granite built, a miracle?
And Luxor smooth without a stain,
Whose graven scripture still we spell?
The jackal and the owl may tell;
Dark snakes around their ruins climb,
They fade like echo in a shell;
Where are the cities of old time?
And where is white Shushan, again,
Where Vashti's beauty bore the bell,
And all the Jewish oil and grain
Were brought to Mithridath to sell,
Where Nehemiah would not dwell,
Because another town sublime
Decoyed him with her oracle?
Where are the cities of old time?
ENVOI
Prince, with a dolorous, ceaseless knell,
Above their wasted toil and crime
The waters of oblivion swell:
Where are the cities of old time?
VILLANELLE
Này cô gái nhỏ của tôi, vĩnh biệt!
Tôi đã từng là chim sẻ của em
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
Tôi xin em đừng phí hoài nước mắt
Cuộc sống của em chỉ có niềm vui
Này cô gái nhỏ của tôi, vĩnh biệt!
Cho tôi nằm dưới cây tùng cây bách
Ngọn cây cao vút trong khu vườn em
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
Ta yêu bầu trời tĩnh lặng màu xanh
Và ta yêu vẻ dịu dàng trong sáng
Cô gái của tôi ơi, vĩnh biệt em!
Tôi cảm thấy như vẫn nằm trên ngực
Và sưởi ấm từ bộ ngực trinh nguyên
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
Hãy để cho những con chim trong vườn
Sẽ nức nở về tôi và than khóc
Cô gái của tôi ơi, vĩnh biệt em!
Hãy đào huyệt giùm tôi, tôi phải chết.
Villanelle
Little mistress mine, good-bye!
I have been your sparrow true;
Dig my grave, for I must die.
Waste no tear and heave no sigh;
Life should still be blithe for you,
Little mistress mine, good-bye!
In your garden let me lie,
Underneath the pointed yew
Dig my grave, for I must die.
We have loved the quiet sky
With its tender arch of blue;
Little mistress mine, good-bye!
That I still may feel you nigh,
In your virgin bosom, too,
Dig my grave, for I must die.
Let our garden friends that fly
Be the mourners, fit and few.
Little mistress mine, good-bye!
Dig my grave, for I must die.
Robert William Service (16
tháng 1 năm 1874 – 11 tháng 9 năm 1958) – nhà thơ, nhà văn người Canada gốc
Anh. Ông thường được gọi là Kipling của Canada, được so sánh với Jack London và
Robert Burns. Tác phẩm của ông đã trở thành một trong những đỉnh cao của văn học
Canada.
Tiểu sử
Robert William Service sinh ở Preston, Lancashire, Anh quốc trong một
gia đình người Scotland. Ông đã trải qua thời thơ ấu của mình ở Scotland, học tại
tại trường trung học Hillhead ở Glasgow.
Service di cư đến Canada năm 1894, làm việc tại Ngân hàng Thương mại
Canada trong tám năm. Đó là thời điểm ông xuất bản tập thơ đầu tiên và đã làm
cho ông nổi tiếng – “Những bài ca của Sourdough” (Songs of a Sourdough).
Trong cuộc chiến Balkan năm 1912 – 13 là phóng viên của nhật báo
“Toronto Stars”. Trong Thế chiến thứ nhất, năm 1914 ở Pháp, ông làm phóng viên
và lái xe cứu thương. Sau chiến tranh, ông định cư ở Pháp và kết hôn với một phụ
nữ Pháp.
Trong Thế chiến thứ hai ông sống ở Hollywood (California, Mỹ) và
Vancouver (Canada). Sau Thế chiến thứ hai, ông trở về Pháp sống với vợ và con
gái trong suốt quãng đời còn lại của mình ở Brittany và ở Monte Carlo trên bờ
biển Riviera của Pháp.
Robert William Service qua đời ở tuổi 84 vì một cơn đau tim ở Lancieux
(Pháp) vào ngày 11/9/1958, để lại cho đời hơn một nghìn bài thơ và sáu cuốn tiểu
thuyết.
4 bài thơ
ĐỨC MẸ CỦA TÔI
Tôi dẫn về nhà một cô gái điếm
Không biết xấu hổ nhưng rất dễ thương
Tôi bảo cô ấy ngồi lên ghế bành
Để tôi vẽ chân dung – ngồi đối diện.
Tôi vẽ theo hình Đức Mẹ đồng trinh
Tay bồng một đứa bé con trên ngực
Tôi vẽ điều thiện thay cho điều ác
Tôi vẽ cô như cô ấy đã từng.
Còn cô nhìn bức tranh rồi cười vang
Và sau đó cô bỏ đi đâu đấy
Một người sành sỏi đến xem và nói:
“Mẹ của Giê-su, Đức Mẹ đồng trinh”.
Tôi thêm lên đầu một vầng hào quang
Rồi tôi đem bức tranh này đi bán
Hình cô ấy treo trong nhà thờ Thánh
Hillaire – nơi bạn có thể nhìn.
My Madonna
I haled me a woman from the street,
Shameless, but, oh, so fair!
I bade her sit in the model's seat
And I painted her sitting there.
I hid all trace of her heart unclean;
I painted a babe at her breast;
I painted her as she might have been
If the Worst had been the Best.
She laughed at my picture and went away.
Then came, with a knowing nod,
A connaisseur, and I heard him say:
«'Tis Mary, the Mother of God».
So I painted a halo round her hair,
And I sold her and took my fee,
And she hangs in the church of Saint Hillaire,
Where you and all may see.
ANH EM SINH ĐÔI
John và James là hai anh em ruột
Một hôm ngọn lửa bốc cháy khắp làng
John chạy sang dập lửa giúp cho James
Khi trở về thì nhà mình cháy sạch.
Khi khắp thế giới nổ ra chiến tranh
John tình nguyện tham gia vào quân đội
Khi John nằm trong hầm vì bom dội
James ở nhà tìm kiếm việc kinh doanh.
John trở về nhà cụt mất một chân
Nhưng điều đó không làm anh lo lắng
Chỉ một điều không thể nào chấp nhận
James đã lấy mất cô gái của mình!
John kết bạn với rượu vì nỗi buồn
Còn James là một doanh nhân giàu có
Buôn với quân đội càng thêm giàu nữa
Còn John? Tìm Thợ gốm trên đồng.
The Twins
There were two brothers, John and James,
And when the town went up in flames,
To save the house of James dashed John,
Then turned, and lo! his own was gone.
And when the great World War began,
To volunteer John promptly ran;
And while he learned live bombs to lob,
James stayed at home and—sneaked his job.
John came home with a missing limb;
That didn’t seem to worry him;
But oh, it set his brain awhirl
To find that James had—sneaked his girl!
Time passed. John tried his grief to drown;
To-day James owns one-half the town;
His army contracts riches yield;
And John? Well, search the Potter’s Field.
FI FI TRÊN GIƯỜNG
Tôi nhìn vào trời đêm
Vô vàn ngôi sao nhỏ
Chúa Trời đang ở đó
Ngài cô đơn vô cùng!
Tôi nhảy nhót cả ngày
Đức Chúa Trời vĩ đại
Tôi vui vì nhận thấy
Tôi không phải Chúa Trời.
Tội nghiệp Chúa trên ngai
Chúa Trời yêu tất cả
Nhưng mình Chúa đơn lẻ
“Chúa ơi, con thương Ngài”.
Fi-Fi in Bed
Up into the sky I stare;
All the little stars I see;
And I know that God is there
O, how lonely He must be!
Me, I laugh and leap all day,
Till my head begins to nod;
He’s so great, He cannot play:
I am glad I am not God.
Poor kind God upon His throne,
Up there in the sky so blue,
Always, always all alone...
“Please, dear God, I pity You.”
NGƯỜI SUY TƯ
Tôi đi lang thang từ Đông sang Tây
Tôi xuôi phương Nam, ngược về phương Bắc
Niềm tự hào và đam mê thúc giục
Suốt đêm ngày không cho phép nghỉ ngơi.
Và tôi vẫn đi tìm kiếm khắp nơi
Một mái nhà cho mình, một tổ ấm
Bốn bức tường, một ngôi nhà tĩnh lặng…
“Bạn sẽ có nó – khi bạn qua đời”.
The Wistful One
I sought the trails of South and North,
I wandered East and West;
But pride and passion drove me forth
And would not let me rest.
And still I seek, as still I roam,
A snug roof overhead;
Four walls, my own; a quiet home. . . .
"You'll have it -- when you're dead."
James Elroy Flecker (5 tháng
11 năm 1884 – 3 tháng 1 năm 1915) – nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Anh.
Với tư cách là một nhà thơ, ông chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ các nhà thơ thuộc
trường phái Parnassia (Thi Sơn).
Tiểu sử
Herman Elroy Flecker sinh ngày 5 tháng 11 năm 1884 tại Lewisham, Luân
Đôn, học tại Trường Dean Close và trường Uppingham. Sau đó, ông học tại Cao đẳng
Trinity, Oxford và Cao đẳng Caius, Cambridge. Khi ở Oxford, ông chịu ảnh hưởng
của phong trào Mỹ học dưới thời John Addton Symonds và trở thành bạn thân của
nhà cổ điển học và sử học nghệ thuật John Beazley.
Từ năm 1910, ông làm việc tại Lãnh sự Anh, chi nhánh phía đông Địa
Trung Hải. Trên một con tàu đến Athens, ông gặp Helle Skiadaresi, một cô gái
người Hy Lạp và năm 1911 kết hôn với cô. Tháng 3 năm 1913, ông bị ốm nặng và đến
Thụy Sĩ để chữa bệnh, theo lời khuyên của một trong những bác sĩ, đã ở lại đây
trong mười tám tháng cuối cùng của cuộc đời.
Flecker mất ngày 3 tháng 1 năm 1915 vì bệnh lao ở Davos năm ba mươi tuổi.
Cái chết của ông được những người cùng thời mô tả “là sự mất mát lớn nhất của
văn học Anh kể từ cái chết của Keats”. Những bài thơ của ông được trích dẫn
trong các tác phẩm của Agatha Christie, Jorge Luis Borges.
Di sản thơ của ông không nhiều nhưng có những bài thơ có sự ảnh hưởng
sâu rộng trong văn hóa đại chúng. Những bài thơ mà chúng tôi dịch ở phần dưới
đây là những bài thơ nổi tiếng nhất của ông.
3 bài thơ
GỬI NHÀ THƠ SAU 1000 NĂM
Tôi là người đã chết một ngàn năm
Là tác giả của một bài hát cổ
Gửi cho bạn những lời như sứ giả
Vì xác thân này không thể hồi sinh.
Bạn sẽ bắc những cây cầu trên biển
Chế ngự bao tai họa giữa trời xanh
Hoặc bạn xây dựng vô vàn cung điện
Bằng gạch hay sắt – tôi chẳng bận lòng.
Quan trọng là liệu có còn âm nhạc
Còn rượu vang, còn ánh mắt đưa tình
Ý nghĩ về cái thiện và cái ác
Lời nguyện cầu với những vị thần linh?
Làm thế nào để chúng ta chinh phục
Ý nghĩ ta, như ngọn gió mùa thu?
Về điều này ba nghìn năm về trước
Đã nói nhà thơ Homer – ông già mù.
Hỡi người bạn vô hình còn chưa sinh
Người học trò chân thành yêu tiếng mẹ
Hãy đọc thơ tôi trong đêm một mình
Tôi cũng từng trẻ trung và Thi sĩ.
Vì ta không thể tay bắt mặt mừng
Vì ta cách xa muôn trùng diệu vợi
Tôi gửi hồn của mình qua thời gian
Để chào bạn và tôi mong bạn hiểu.
To A Poet A Thousand Years Hence
I who am dead a thousand years,
And wrote this sweet archaic song,
Send you my words for messengers
The way I shall not pass along.
I care not if you bridge the seas,
Or ride secure the cruel sky,
Or build consummate palaces
Of metal or of masonry.
But have you wine and music still,
And statues and a bright-eyed love,
And foolish thoughts of good and ill,
And prayers to them who sit above?
How shall we conquer? Like a wind
That falls at eve our fancies blow,
And old Mæonides the blind
Said it three thousand years ago.
O friend unseen, unborn, unknown,
Student of our sweet English tongue,
Read out my words at night, alone:
I was a poet, I was young.
Since I can never see your face,
And never shake you by the hand,
I send my soul through time and space
To greet you. You will understand.
HÀNH TRÌNH VÀNG ĐẾN SAMARKAND*
Ta là những kẻ hành hương trên đường
Con đường của ta kéo dài vô tận
Qua ngọn đồi xanh phủ đầy tuyết trắng
Qua sóng đại dương khi dữ khi hiền.
Ngai màu trắng được canh giữ trong hang
Ở nơi đó có một nhà thông thái
Kể điều bí ẩn cho người đi tới
Trên con đường vàng đến Samarkand.
Con đường tuyệt vời trong buổi hoàng hôn
Khi trên cát hiện lên từng chiếc bóng
Và tiếng chuông từ xa xôi vang vọng
Theo con đường vàng đến Samarkand.
Ta đi khắp nơi không chỉ vì buôn
Cơn gió nóng thổi vào tim rực lửa
Và ta thực hiện chuyến đi khai phá
Bằng hành trình vàng đến Samarkand.
_______________
*Samarkand (ngày nay thuộc Uzbekistan) – Trong hơn 2000 năm, thành phố
này là điểm trọng yếu trên Con đường Tơ lụa vĩ đại giữa Trung Quốc và châu Âu,
đồng thời là một trong những trung tâm khoa học chính ở phương Đông thời Trung
cổ.
The Golden Journey to Samarkand
We are the Pilgrims, master; we shall go
Always a little further: it may be
Beyond that last blue mountain barred with snow,
Across that angry or that glimmering sea,
White on a throne or guarded in a cave
There lives a prophet who can understand
Why men were born: but surely we are brave,
Who take the Golden Road to Samarkand.
Sweet to ride forth at evening from the wells
When shadows pass gigantic on the sand,
And softly through the silence beat the bells
Along the Golden Road to Samarkand.
We travel not for trafficking alone;
By hotter winds our fiery hearts are fanned:
For lust of knowing what should not be known
We make the Golden Journey to Samarkand.
NHỮNG ĐÀI PHUN
Đêm mát mẻ, dịu dàng
Mặt nước hồ gợn sóng
Tôi đưa bàn tay xuống
Lấy một ít cát lên.
Cầu nguyện trong bóng đêm
Trong mắt tôi ẩn hiện
Sao trời trong vực thẳm
Đùa vui với cá vàng.
Giữa trời sao vô vàn
Có những bông hoa súng.
Fountains
Soft is the collied night, and cool
The wind about the garden pool.
Here I will dip my burning hand,
And move an inch of garden sand,
And pray the dark reflected skies
To fasten with their seal mine eyes.
A million million leagues away
Among the stars the goldfish play,
And high above the shadowed stars
Wave and float the nenuphars.
George William Russell (10
tháng 4 năm 1867 – 17 tháng 7 năm 1935) – nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhà thông
thiên học và người theo chủ nghĩa dân tộc Ireland. Trong các tác phẩm của mình
ông dùng bút danh Æ (đôi khi được viết là AE hoặc A.E.).
Tiểu sử
Russell sinh ở Lurgan, County Armagh, là con trai thứ hai của Thomas
Russell và Mary Armstrong. Năm 1878, Russells chuyển đến Dublin, nơi George học
tại Trường Nghệ thuật Metropolitan từ năm 1880 và từ năm 1882 tại Trường
Rathmines. Năm 1885, Russell bỏ học và trong năm đó cùng với Yeats thành lập
chi nhánh Dublin của Hiệp hội Hermetic (Hermetic Society).
Năm 1866, ông gia nhập Hội Thông thiên học (Theosophical Society) và trở
thành một trong những người sáng lập Dublin Lodge của Hội thông thiên học. Sau
khi chia tách vào năm 1895, Russell ủng hộ ý tưởng của William K. Judge và trở
thành thành viên của Hội Thông thiên học Hoa Kỳ. Russell là chủ tịch của Hiệp hội
Hermetic cho đến năm 1933.
Là nhà thơ, nhà xuất bản và họa sĩ, J.Russell rất nổi tiếng ở Dublin.
Cùng với Yeats và Gregory, ông là một trong những nhân vật trung tâm của phe bảo
thủ trong thời kỳ Phục hưng Ireland. Ngoài một số tuyển tập thơ, ông còn viết
nhiều bài báo, luận thuyết thần bí và chính trị. Từ năm 1905 đến năm 1923, ông
xuất bản tạp chí “Irish Homestead”, trong các năm 1923 – 1930 tờ báo “The Irish
Statesman”. Từ ngày 15 tháng 9 năm 1923 cho đến ngày 12 tháng 4 năm 1930 hai tờ
báo và tạp chí này hợp nhất lại với nhau.
George William Russell mất vì bệnh ung thư ở Bournemouth năm 1935. Thi
thể của ông đã được đưa trở lại Ireland và được an táng tại Nghĩa trang Mount
Jerome, Dublin.
4 bài thơ
SỰ THA THỨ
Trong bóng tối kính trở nên mờ mịt
Và thế giới ẩm ướt phủ đầy sương
Trong căn phòng rất nhỏ bé của em
Mọi thứ không hề dễ dàng phân biệt.
Tôi kể với em về những lỗi lầm
Em chưa có hình dung về tội lỗi
Trong đầu của tôi một cơn đau nhói
Và cơn sốt cao, tôi cảm thấy run.
Tôi chạm vào sự trinh trắng của em
Bằng những lỗi lầm mà tôi mang lại
Tâm hồn của tôi đen như đêm tối
Em nhìn tôi như con thú bị thương.
Tôi cần một tình yêu không bình thường
Một tình yêu bằng lời không thể nói
Đặt mái đầu của tôi lên đầu gối
Tay em vuốt ve mái tóc nhẹ nhàng.
Và chắp tay lại như để ban ơn
Em nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ
Của Sibylla – thầy bói, nhà thông thái
Trong mắt em sự Yên tĩnh ngàn năm.
Forgiveness
AT dusk the window panes grew grey;
The wet world vanished in the gloom;
The dim and silver end of day
Scarce glimmered through the little room.
And all my sins were told; I said
Such things to her who knew not sin—
The sharp ache throbbing in my head,
The fever running high within.
I touched with pain her purity;
Sin’s darker sense I could not bring:
My soul was black as night to me;
To her I was a wounded thing.
I needed love no words could say;
She drew me softly nigh her chair,
My head upon her knees to lay,
With cool hands that caressed my hair.
She sat with hands as if to bless,
And looked with grave, ethereal eyes;
Ensouled by ancient Quietness,
A gentle priestess of the Wise.
SỰ GẦN GŨI
Ta tìm ra một con đường bí mật
Lửa tình yêu không tắt được bao giờ
Dù cả thế gian theo dõi hai ta
Cũng không hiểu rằng chúng mình thân thiết.
Ta tìm ra tình yêu trong chính mình
Ta biết rằng không gian là huyền thoại
Dù cả trăm nghìn dặm đường không thể
Ngăn cản chúng mình gần lại môi hôn.
Anh và em hòa nhập hai trái tim
Cả khi gần hay khi xa vẫn thế
Và chúng mình không bao giờ tìm thấy
Một giới hạn nào có thể cách ngăn.
Anh và em cùng đưa mắt nhìn lại
Để nhận ra rằng có biết bao lần
Cả quá khứ trong hương vị của tình
Và còn tiếp tục lâu dài sau đấy.
Và niềm vui mà hai ta tìm thấy
Trên mặt đất thời thơ ấu thần tiên
Ẩn trong trái tim của con người trần
Xua nỗi sợ trước tháng năm hiện tại.
Hai chúng ta đang cười, nếu đột nhiên
Thời gian muốn làm cho ta thấy sợ
Thì ta bằng những nụ hôn bất tử
Và dễ dàng vượt qua ngưỡng thời gian.
Affinity
YOU and I have found the secret way,
None can bar our love or say us nay:
All the world may stare and never know
You and I are twined together so.
You and I for all his vaunted width
Know the giant Space is but a myth;
Over miles and miles of pure deceit
You and I have found our lips can meet.
You and I have laughed the leagues apart
In the soft delight of heart to heart.
If there’s a gulf to meet or limit set,
You and I have never found it yet.
You and I have trod the backward way
To the happy heart of yesterday,
To the love we felt in ages past.
You and I have found it still to last.
You and I have found the joy had birth
In the angel childhood of the earth,
Hid within the heart of man and maid.
You and I of Time are not afraid.
You and I can mock his fabled wing,
For a kiss is an immortal thing.
And the throb wherein those old lips met
Is a living music in us yet.
BA LỜI KHUYÊN
Tôi gặp một bóng ma hình ngọn lửa
Một linh hồn hiện ra trước mắt tôi
Và dường như đã chạm nhẹ vào vai
Rất vô tình làm cho tôi thấy sợ.
Hồn nói nhỏ: “Hãy luôn bình tĩnh nhé!”
Ngay sau đó linh hồn biến mất tăm.
Và trong trí nhớ của tôi nhiều năm
Vẫn còn giữ lại một lời khuyên đó.
Nhưng dường như ai đó hét trong tim
Một chiến binh trong người tôi vẫn sống:
“Hãy biến nỗi sợ hãi thành can đảm
Và luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến tranh!
Quyền lực lâu đời của những quân vương
Hãy dùng lời bạn làm cho rung chuyển
Những pháo đài dối trá và phù phiếm
Hãy làm cho ngã gục dưới chân mình!”
Nhưng một linh hồn thông thái cất lên
Không khuyên chiến tranh hòa bình gì cả
“Luôn cố gắng là chính mình, bạn ạ
Và bạn tìm ra tĩnh lặng cho mình”.
Three Counsellors
IT was the fairy of the place,
Moving within a little light,
Who touched with dim and shadowy grace
The conflict at its fever height.
It seemed to whisper “Quietness,”
Then quietly itself was gone:
Yet echoes of its mute caress
Were with me as the years went on.
It was the warrior within
Who called “Awake, prepare for fight:
Yet lose not memory in the din:
Make of thy gentleness thy might:
“Make of thy silence words to shake
The long-enthroned kings of earth:
Make of thy will the force to break
Their towers of wantonness and mirth.”
It was the wise all-seeing soul
Who counselled neither war nor peace:
“Only be thou thyself that goal
In which the wars of time shall cease.”
TẦM NHÌN CỦA TÌNH YÊU
Hoàng hôn trên làn nước xanh như ngọc của sông
Đêm như viên kim cương mơ màng trong giấc ngủ
Đôi mắt của em như viên đá, như sao trời sáng tỏ
Với tầm nhìn khiến cho ta hòa nhập với màn đêm.
Trong cái đêm ta yêu nhau, gần gũi xác thân
Những bờ môi từng cháy lên trong ngọn lửa
Những cây liễu yêu tinh rung lá cành trong gió
Nài nỉ với anh rằng anh đừng chết ở trong em.
Tình yêu của ta rộng lớn như thiên đường
Nhưng giờ không còn gì, đam mê đã hết
Những cây liễu gọi anh quay về trái đất
Và ta lại quay về với bóng tối đêm đen.
The Vision of Love
THE TWILIGHT fleeted away in pearl on the stream,
And night, like a diamond done, stood still in our dream.
Your eyes like burnished stones or as stars were bright
With the sudden vision that made us one with the night.
We loved in infinite spaces, forgetting here
The breasts that were lit with life and the lips so near;
Till the wizard willows waved in the wind and drew
Me away from the fulness of love and down to you.
Our love was so vast that it filled the heavens up:
But the soft white form I held was an empty cup,
When the willows called me back to earth with their sigh,
And we moved as shades through the deep that was you and I.