Adrian Mitchell (24 tháng 10
năm 1932 – 20 tháng 12 năm 2008) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Anh.
Ông khởi đầu là một nhà báo, sau đó trở thành một nhân vật nổi tiếng trong giới
Cánh tả Anh. Trong gần nửa thế kỷ, ông là người dùng thơ để phản đối chiến
tranh và chạy đua vũ trang hạt nhân.
Tiểu sử
Mitchell sinh ra gần Hampstead Heath, Bắc London. Mẹ ông, Kathleen Fabian, là giáo viên trường mầm non và cha ông, Jock Mitchell, là một nhà hóa học. Adrian đã dàn dựng vở kịch đầu tiên của mình vào năm 9 tuổi, khi vẫn còn đi học. Sau khi tốt nghiệp, Mitchell phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia. Ông tiếp tục theo học tiếng Anh tại Christ Church College, Oxford. Ông trở thành chủ tịch hội thơ ca của trường đại học và biên tập viên văn học của tạp chí “Isis magazine”. Sau khi tốt nghiệp, ông làm phóng viên của tờ “Oxford Mail” và sau đó là tờ “Evening Standard” ở Luân Đôn. Là biên tập viên mảng thơ của tạp chí “New Statesman”, ông là người đầu tiên đăng bài phỏng vấn với nhóm “The Beatles”.
Mitchell thường xuyên đọc thơ trước đám đông đặc biệt tại các sự kiện
liên quan đến phong trào cánh tả.
Bài thơ nổi tiếng của ông “Cho những ai quan tâm” (To Whom It May
Concern) đầy mỉa mai cay đắng về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam được
chiếu hằng ngày trên truyền hình:
Sự thật đã đến với tôi một hôm
Từ ngày đó tôi như người bị nạn
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam…
Ông đọc bài thơ này lần đầu tiên trước một cuộc biểu tình phản chiến
hàng nghìn người, bắt đầu từ khu phức hợp hạt nhân ở Berkshire, đi qua các đường
phố chính ở London và cuối cùng tràn vào Quảng trường Trafalgar vào ngày lễ Phục
Sinh năm 1964. Trong khi Mitchell đọc thơ thì những người biểu tình giận dữ đã
lao vào xô xát với cảnh sát. Sau đó ông đã cập nhật các sự kiện hiện tại cho
bài thơ này. Nhiều người đã bị sốc khi Mitchell đọc “Kể tôi nghe điều gian dối
về Việt Nam” ngay trước cuộc xâm lược Iraq năm 2003.
Adrian Mitchell qua đời ở tuổi 76 tại một bệnh viện ở Bắc London do một
cơn đau tim. Hai ngày trước khi mất, ông đã hoàn thành bài thơ cuối cùng của
mình: “My Literary Career So Far”. Ông coi bài thơ này như một món quà Giáng
sinh “cho tất cả bạn bè, gia đình và những động vật mà ông yêu quý”.
NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT
HAY SỰ LỰA CHỌN CỦA CALIBAN
Thái Bình Dương –
Bán cầu xanh.
Những hòn đảo như dấu chấm.
Máy bay kêu ù ù
Hành khách mở giấy gói bơ.
Một cơn bão ập đến
Ném máy bay rơi xuống biển.
Năm người bơi vào hòn đảo hoang sơ
Và sống sót.
Tom là một phóng viên.
Susan là nhà thực vật học.
Jim là nhà vô địch nhảy cao.
Bill là thợ mộc.
Mary là một góa phụ rất kỳ cục.
Tom phóng viên ngay lập tức tìm ra nước uống.
Susan nhà thực vật học liền xác định cây chuối rừng
Jim nhà vô địch nhảy cao cắt buồng chuối từ trên ngọn
Bill thợ mộc làm ngay ra một chiếc bàn ăn.
Mary góa phụ lập dị chôn vỏ chuối, nhưng phải nói hai lần.
Tất cả họ đi gom củi và đốt lửa.
Buổi hoàng hôn đẹp đến lạ thường.
Sáng hôm sau họ cùng nhau họp bàn.
Tom, Jim, Bill và Susan
Bình chọn để làm sao cho tốt nhất.
Mary, góa phụ lập dị, ngồi im.
Tom phóng viên đã giết vài chục con lợn rừng.
Rồi dùng da của chúng để làm ra giấy
Dùng mực bạch tuộc in tờ “Tin tức của Đảo”
Susan nhà thực vật học phát triển các loài chuối mới
Có mùi của sô cô la, bò bít tết, bơ từ đậu
Gà và xi để đánh bóng giày.
Jim vô địch nhảy cao tổ chức trò chơi thể thao
Mà anh ta vẫn luôn dễ dàng giành thắng lợi.
Bill thợ mộc làm một bánh xe nước bằng gỗ
Và chuyển đổi năng lượng nước thành điện để dùng
Và sử dụng quặng sắt trên đảo để xây dựng cột đèn.
Tất cả họ đều lo lắng cho Mary, góa phụ lập dị
Cô ấy thiếu tự tin vào chính bản thân mình
Nhưng họ không có thời gian để dỗ dành cô ấy.
Núi lửa phun trào, nhưng họ đào một rãnh
Để chuyển hướng cho dung nham xuống biển
Biến thành một bến tàu nơi chúng đóng băng
Họ bị cướp biển tấn công nhưng họ giành chiến thắng
Từ những khẩu pháo bazooka làm bằng tre họ bắn
Bằng nhím biển đóng gói với thuốc nổ tự làm.
Họ cho kẻ ăn thịt người uống liều thuốc của mình
Nhờ kỹ năng nhảy mà sống sót sau động đất
Tom đã từng là một phóng viên về luật pháp
Vì vậy, thành thẩm phán giải quyết mọi tranh giành
Còn nhà thực vật học Susan đi thành lập
Một trường đại học, cũng là một bảo tàng.
Jim – người vô địch môn nhảy cao nhiều lần
Được giao trách nhiệm thực thi pháp luật –
Nhảy vào can thiệp khi có sự bất luân
Bill thợ mộc xây một nhà thờ cho mình
Để đọc bài giảng vào mỗi ngày chủ nhật.
Nhưng còn Mary – góa phụ lập dị đáng thương
Mỗi tối cô lang thang qua những đường phố chính
Ngang qua Nhà Quốc hội, qua sàn Chứng khoán
Ngang qua kho vũ khí, ngang qua nhà tù
Ngang qua cửa hàng lưu niệm Prospero
Qua xưởng phim R.L.Stevenson, khách sạn Defoe
Cô lo lắng khi lang thang rồi ngồi trên bến cảng
Cô thở dài ngao ngán
Như thể mất mát rất nhiều
Như một kẻ đang yêu
Và cô mở to đôi mắt
Nhìn buổi hoàng hôn có một không hai.
______________
*Caliban là quái vật độc ác của Shakespeare trong vở “The Tempest”.
The Castaways or Vote for
Caliban
A Pacific Ocean —
A blue demi-globe.
Islands like punctuation marks.
A cruising airliner;
Passengers unwrapping pats of butter.
A hurricane arises,
Tosses the plane into the sea.
Five of them, flung onto an island beach,
Survived.
Tom the reporter.
Susan the botanist.
Jim the high jump champion.
Bill the carpenter.
Mary the eccentric widow.
Tom the reporter sniffed out a stream of drinkable water.
Susan the botanist identified the banana tree.
Jim the high-jump champion jumped up and down and gave them each a bunch.
Bill the carpenter knocked up a table for their banana supper.
Mary the eccentric widow buried the banana skins, but only after they had asked her twice.
They all gathered sticks and lit a fire.
There was an incredible sunset.
Next morning they held a committee meeting.
Tom, Susan, Jim and Bill
Voted to make the best of things.
Mary, the eccentric widow, abstained.
Tom the reporter killed several dozen wild pigs.
Tanned their skins into parchment
And printed the Island News with the ink of squids.
Susan the botanist developed the new strains of banana
Which tasted of chocolate, beefsteak, peanut butter,
Chicken and boot polish.
Jim the high jump champion organized organized games
Which he always won easily.
Bill the carpenter constructed a wooden water wheel
And converted the water’s energy into electricity
Using iron ore from the hills, he constructed lamppost.
They all worried about Mary, the eccentric widow,
Her lack of confidence and her-
But there was not time to coddle her.
The volcano erupted, but they dug a trench
And diverted the lava into the sea
Where it found a spectacular pier
They were attacked by the pirates but defeated them
With bamboo bazookas firing
Sea-urchins packed with home-made nitro-glycerin.
They gave the cannibals a dose of their own medicine
And survived an earthquake thanks to their skill in jumping.
Tom had been a court reporter
So he became a magistrate and solved disputes
Susan the Botanist established
A University which also served as a museum.
Jim the high-jump champion
Was put in charge of law enforcement-
Jumped on them when they were bad.
Bill the carpenter built himself a church,
Preached there every Sunday.
But Mary the eccentric widow …
Each evening she wandered down the island’s main street,
Past the Stock Exchange, the Houses of Parliament,
The prison and the arsenal.
Past the Prospero Souvenir Shop,
Past the Robert Louis Stevenson Movie Studios, past the Daniel Defoe Motel
She nervously wandered and sat on the end of the pier of lava,
Breathing heavily,
As if at a loss,
As if at a lover,
She opened her eyes wide
To the usual incredible sunset.
CHO NHỮNG AI QUAN TÂM
Sự thật đã đến với tôi một hôm
Từ ngày đó tôi như người bị nạn
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Nghe đồng hồ báo thức kêu đau đớn
Không hiểu sao, sau đấy lại mơ màng
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Hễ nhắm mắt lại thấy lửa cháy lên
Tôi tạo một danh bạ bằng đá trắng
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Mùi gì đang cháy, hy vọng là não của tôi
Chúng giống như những cánh hoa rơi xuống
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Bạn đã ở đâu khi người ta gây án?
Dưới tượng đài Cenotaph lang thang?
Hãy xích lưỡi của tôi bằng rượu mạnh
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Những kẻ ném bom có còn lương tâm
Bóp nghẹt mọi thứ của con người trần
Hãy cạo da của tôi với người phụ nữ
Hãy xích lưỡi của tôi bằng rượu mạnh
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
______________
*Cenotaph – tượng đài tưởng niệm những người Anh đã chết trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất.
Trong bài thơ đọc trước hàng ngàn người năm 2003 chống chiến tranh tại
I-rắc có thêm những dòng sau:
Kể tôi nghe điều gian dối về Aghanistan.
Kể tôi nghe điều gian dối về Israel.
Kể tôi nghe điều gian dối về Congo.
Kể tôi nghe điều gian dối, hở ngài Bush.
Kể tôi nghe điều gian dối, ngài Blair, Brown, Blair-Brown.
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
To Whom It May Concern
I was run over by the truth one day.
Ever since the accident I've walked this way
So stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Heard the alarm clock screaming with pain,
Couldn't find myself so I went back to sleep again
So fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Every time I shut my eyes all I see is flames.
Made a marble phone book and I carved out all the names
So coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
I smell something burning, hope it's just my brains.
They're only dropping peppermints and daisy-chains
So stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Where were you at the time of the crime?
Down by the Cenotaph drinking slime
So chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
You put your bombers in, you put your conscience out,
You take the human being and you twist it all about
So scrub my skin with women
Chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
=
You put your bombers in, you put your conscience out,
You take the human being and you twist it all about
So scrub my skin with women
Chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies, tell me lies about Aghanistan.
Tell me lies about Israel.
Tell me lies about Congo.
Tell me, tell me lies Mr Bush.
Tell me lies Mr B-B-Blair, Brown, Blair-Brown.
Tell me lies about Vietnam.
Mitchell sinh ra gần Hampstead Heath, Bắc London. Mẹ ông, Kathleen Fabian, là giáo viên trường mầm non và cha ông, Jock Mitchell, là một nhà hóa học. Adrian đã dàn dựng vở kịch đầu tiên của mình vào năm 9 tuổi, khi vẫn còn đi học. Sau khi tốt nghiệp, Mitchell phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia. Ông tiếp tục theo học tiếng Anh tại Christ Church College, Oxford. Ông trở thành chủ tịch hội thơ ca của trường đại học và biên tập viên văn học của tạp chí “Isis magazine”. Sau khi tốt nghiệp, ông làm phóng viên của tờ “Oxford Mail” và sau đó là tờ “Evening Standard” ở Luân Đôn. Là biên tập viên mảng thơ của tạp chí “New Statesman”, ông là người đầu tiên đăng bài phỏng vấn với nhóm “The Beatles”.
Từ ngày đó tôi như người bị nạn
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam…
HAY SỰ LỰA CHỌN CỦA CALIBAN
Bán cầu xanh.
Những hòn đảo như dấu chấm.
Máy bay kêu ù ù
Hành khách mở giấy gói bơ.
Một cơn bão ập đến
Ném máy bay rơi xuống biển.
Năm người bơi vào hòn đảo hoang sơ
Và sống sót.
Tom là một phóng viên.
Susan là nhà thực vật học.
Jim là nhà vô địch nhảy cao.
Bill là thợ mộc.
Mary là một góa phụ rất kỳ cục.
Tom phóng viên ngay lập tức tìm ra nước uống.
Susan nhà thực vật học liền xác định cây chuối rừng
Jim nhà vô địch nhảy cao cắt buồng chuối từ trên ngọn
Bill thợ mộc làm ngay ra một chiếc bàn ăn.
Mary góa phụ lập dị chôn vỏ chuối, nhưng phải nói hai lần.
Tất cả họ đi gom củi và đốt lửa.
Buổi hoàng hôn đẹp đến lạ thường.
Sáng hôm sau họ cùng nhau họp bàn.
Tom, Jim, Bill và Susan
Bình chọn để làm sao cho tốt nhất.
Mary, góa phụ lập dị, ngồi im.
Tom phóng viên đã giết vài chục con lợn rừng.
Rồi dùng da của chúng để làm ra giấy
Dùng mực bạch tuộc in tờ “Tin tức của Đảo”
Susan nhà thực vật học phát triển các loài chuối mới
Có mùi của sô cô la, bò bít tết, bơ từ đậu
Gà và xi để đánh bóng giày.
Jim vô địch nhảy cao tổ chức trò chơi thể thao
Mà anh ta vẫn luôn dễ dàng giành thắng lợi.
Bill thợ mộc làm một bánh xe nước bằng gỗ
Và chuyển đổi năng lượng nước thành điện để dùng
Và sử dụng quặng sắt trên đảo để xây dựng cột đèn.
Tất cả họ đều lo lắng cho Mary, góa phụ lập dị
Cô ấy thiếu tự tin vào chính bản thân mình
Nhưng họ không có thời gian để dỗ dành cô ấy.
Để chuyển hướng cho dung nham xuống biển
Biến thành một bến tàu nơi chúng đóng băng
Họ bị cướp biển tấn công nhưng họ giành chiến thắng
Từ những khẩu pháo bazooka làm bằng tre họ bắn
Bằng nhím biển đóng gói với thuốc nổ tự làm.
Họ cho kẻ ăn thịt người uống liều thuốc của mình
Nhờ kỹ năng nhảy mà sống sót sau động đất
Tom đã từng là một phóng viên về luật pháp
Vì vậy, thành thẩm phán giải quyết mọi tranh giành
Còn nhà thực vật học Susan đi thành lập
Một trường đại học, cũng là một bảo tàng.
Jim – người vô địch môn nhảy cao nhiều lần
Được giao trách nhiệm thực thi pháp luật –
Nhảy vào can thiệp khi có sự bất luân
Bill thợ mộc xây một nhà thờ cho mình
Để đọc bài giảng vào mỗi ngày chủ nhật.
Mỗi tối cô lang thang qua những đường phố chính
Ngang qua Nhà Quốc hội, qua sàn Chứng khoán
Ngang qua kho vũ khí, ngang qua nhà tù
Ngang qua cửa hàng lưu niệm Prospero
Qua xưởng phim R.L.Stevenson, khách sạn Defoe
Cô lo lắng khi lang thang rồi ngồi trên bến cảng
Cô thở dài ngao ngán
Như thể mất mát rất nhiều
Như một kẻ đang yêu
Và cô mở to đôi mắt
Nhìn buổi hoàng hôn có một không hai.
______________
*Caliban là quái vật độc ác của Shakespeare trong vở “The Tempest”.
A blue demi-globe.
Islands like punctuation marks.
A cruising airliner;
Passengers unwrapping pats of butter.
A hurricane arises,
Tosses the plane into the sea.
Five of them, flung onto an island beach,
Survived.
Tom the reporter.
Susan the botanist.
Jim the high jump champion.
Bill the carpenter.
Mary the eccentric widow.
Susan the botanist identified the banana tree.
Jim the high-jump champion jumped up and down and gave them each a bunch.
Bill the carpenter knocked up a table for their banana supper.
Mary the eccentric widow buried the banana skins, but only after they had asked her twice.
They all gathered sticks and lit a fire.
There was an incredible sunset.
Next morning they held a committee meeting.
Tom, Susan, Jim and Bill
Voted to make the best of things.
Mary, the eccentric widow, abstained.
Tom the reporter killed several dozen wild pigs.
Tanned their skins into parchment
And printed the Island News with the ink of squids.
Susan the botanist developed the new strains of banana
Which tasted of chocolate, beefsteak, peanut butter,
Chicken and boot polish.
Jim the high jump champion organized organized games
Which he always won easily.
Bill the carpenter constructed a wooden water wheel
And converted the water’s energy into electricity
Using iron ore from the hills, he constructed lamppost.
They all worried about Mary, the eccentric widow,
Her lack of confidence and her-
But there was not time to coddle her.
The volcano erupted, but they dug a trench
And diverted the lava into the sea
Where it found a spectacular pier
They were attacked by the pirates but defeated them
With bamboo bazookas firing
Sea-urchins packed with home-made nitro-glycerin.
They gave the cannibals a dose of their own medicine
And survived an earthquake thanks to their skill in jumping.
Tom had been a court reporter
So he became a magistrate and solved disputes
Susan the Botanist established
A University which also served as a museum.
Jim the high-jump champion
Was put in charge of law enforcement-
Jumped on them when they were bad.
Bill the carpenter built himself a church,
Preached there every Sunday.
But Mary the eccentric widow …
Each evening she wandered down the island’s main street,
Past the Stock Exchange, the Houses of Parliament,
The prison and the arsenal.
Past the Prospero Souvenir Shop,
Past the Robert Louis Stevenson Movie Studios, past the Daniel Defoe Motel
She nervously wandered and sat on the end of the pier of lava,
Breathing heavily,
As if at a loss,
As if at a lover,
She opened her eyes wide
To the usual incredible sunset.
Từ ngày đó tôi như người bị nạn
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Không hiểu sao, sau đấy lại mơ màng
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Tôi tạo một danh bạ bằng đá trắng
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Chúng giống như những cánh hoa rơi xuống
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Dưới tượng đài Cenotaph lang thang?
Hãy xích lưỡi của tôi bằng rượu mạnh
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Bóp nghẹt mọi thứ của con người trần
Hãy cạo da của tôi với người phụ nữ
Hãy xích lưỡi của tôi bằng rượu mạnh
Hãy nhét vào lỗ mũi tôi củ hành
Hãy dán mí mắt của tôi bằng mật ong
Tai của tôi lấy ngọc trai che kín
Vỏ thạch cao vào chân tôi hãy dán
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
______________
*Cenotaph – tượng đài tưởng niệm những người Anh đã chết trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất.
Kể tôi nghe điều gian dối về Israel.
Kể tôi nghe điều gian dối về Congo.
Kể tôi nghe điều gian dối, hở ngài Bush.
Kể tôi nghe điều gian dối, ngài Blair, Brown, Blair-Brown.
Kể tôi nghe điều gian dối về Việt Nam.
Ever since the accident I've walked this way
So stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Couldn't find myself so I went back to sleep again
So fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Made a marble phone book and I carved out all the names
So coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
They're only dropping peppermints and daisy-chains
So stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
Down by the Cenotaph drinking slime
So chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
You take the human being and you twist it all about
So scrub my skin with women
Chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies about Vietnam.
You put your bombers in, you put your conscience out,
You take the human being and you twist it all about
So scrub my skin with women
Chain my tongue with whisky
Stuff my nose with garlic
Coat my eyes with butter
Fill my ears with silver
Stick my legs in plaster
Tell me lies, tell me lies about Aghanistan.
Tell me lies about Israel.
Tell me lies about Congo.
Tell me, tell me lies Mr Bush.
Tell me lies Mr B-B-Blair, Brown, Blair-Brown.
Tell me lies about Vietnam.