Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020

Thơ Hilaire Belloc

 

Hilaire Belloc (tên đầy đủ Joseph Hilaire Pierre René Belloc, 27 tháng 7 năm 1870 – 16 tháng 7 năm 1953) – nhà văn, nhà thơ Anh gốc Pháp. Belloc là một trong những nhà văn Anh xuất sắc nhất đầu thế kỷ 20 với gần 150 đầu sách, tuy nhiên ông nổi tiếng trước hết nhờ những cuốn thơ viết cho trẻ em mà ngày nay cả trẻ em lẫn người lớn vẫn đọc một cách thích thú.
 
Tiểu sử
Belloc sinh ở Saint-Cloud, ngoại ô Paris. Cha ông là người Pháp, mẹ là người Anh. Chị gái Marie Belloc cũng trở thành nhà văn. Thời thơ ấu sống ở Anh, tại làng Slindon ở hạt Tây Sussex. Sau này ông đã thể hiện nỗi nhớ vùng đất này trong nhiều bài thơ của mình.
 
Mẹ của ông, Bessie Rayner Parkes (1829-1925) cũng là một nhà văn và là cháu gái của nhà hóa học người Anh Joseph Priestley. Năm 1867 bà kết hôn với luật sư Louis Belloc, con trai của họa sĩ người Pháp Jean Hilaire Belloc. Năm 1872, 5 năm sau khi cưới, Louis Belloc qua đời, đồng thời với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán khiến gia đình trở nên nghèo túng. Người góa phụ trẻ cùng con trai và con gái Marie trở về Anh, nơi Hilaire đã trải qua thời niên thiếu và thời tuổi trẻ của mình, ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội Pháp.
 
Sau khi tốt nghiệp trung học tại Oratory School vào năm 1891 Belloc phục vụ hết thời hạn nghĩa vụ quân sự với tư cách là một công dân Pháp tại một trung đoàn pháo binh gần Toul. Belloc là người có thể lực tốt, từng đi bộ nhiều nơi ở Anh và châu Âu. Khi tán tỉnh người vợ tương lai Elodie Hogan (1868–1914), một người Mỹ mà ông gặp lần đầu tiên vào năm 1890, Belloc đã đi bộ suốt quãng đường từ miền trung tây Hoa Kỳ đến nhà của cô ở bắc California. Hai người kết hôn năm 1896.
 
Năm 1906 ông mua một ngôi nhà có tên là King's Land tại Shipley, hạt Tây Sussex, nơi ông đã nuôi nấng con cái của mình và sống cho đến trước khi qua đời không lâu. Elodie và Belloc có 5 người con trước khi bà qua đời vào năm 1914 vì bệnh cúm. Sau khi bà qua đời, Belloc mặc áo tang cho phần còn lại của cuộc đời mình và giữ phòng của bà đúng như lúc bà để lại.
 
Belloc bị đột quỵ vào năm 1941 và không bao giờ hồi phục sau đó. Ông mất ngày 16 tháng 7 năm 1953 tại Viện dưỡng lão Mount Alvernia ở Surrey do bị bỏng và sốc sau cú ngã khi đặt một khúc gỗ vào lò sưởi tại King's Land. Thi hài của ông được chôn cất tại Đền thờ Đức Mẹ An ủi ở West Grinstead thuộc hạt Tây Sussex, nơi ông thường xuyên tham dự Thánh lễ với tư cách là một giáo dân.

31 bài thơ

 
SÁCH VỀ ĐỘNG VẬT CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ HƯ
 
Lời mở đầu
 
Tôi gọi bạn là đứa trẻ hư
Và đặt làm tiêu đề cuốn sách
Bạn thô lỗ, hoang dã. Nhưng nếu khác
Là điều không có ở tuổi thơ.
 
Tôi hy vọng là bạn hiểu đúng
Những bài học từ cuốn sách này
Để bạn có thể trong phút giây
Trở nên nhu mì và nhã nhặn.
 
Khi bạn bắt đầu một trò chơi
Thì nhớ phải quan sát cẩn thận
Đừng chạy lung tung, đừng nhảy cẫng
Giống như chuột túi Kangaroo.
 
Đừng như những đứa trẻ lang thang
Ăn đừng như lợn nhai chóp chép
Khi đi ngủ bạn đừng khụt khịt
Giống như những chú chó con.
 
Đừng bắt chước điệu bộ con khỉ
Hay bắt chước con gấu biếng lười
Hãy siêng năng chăm chỉ vui tươi
Đầu tóc gọn gàng và sạch sẽ.
 
Biết kiểm soát hành động của mình
Để người ta nói lời về bạn:
“Bé giống như con mèo xinh xắn
Bé giống như con cú thông minh”.
 
Introduction: The Bad Child's Book Of Beasts
 
I call you bad, my little child,
Upon the title page,
Because a manner rude and wild
Is common at your age.
 
The Moral of this priceless work
(If rightly understood)
Will make you - from a little Turk -
Unnaturally good.
 
Do not as evil children do,
Who on the slightest grounds
Will imitate the Kangaroo,
With wild unmeaning bounds:
 
Do not as children badly bred,
Who eat like little Hogs,
And when they have to go to bed
Will whine like Puppy Dogs:
 
Who take their manners from the Ape,
Their habits from the Bear,
Indulge the loud unseemly jape,
And never brush their hair.
 
But so control your actions that
Your friends may all repeat.
'This child is dainty as the Cat,
And as the Owl discreet.'

 
 
ĐỀ TRONG SÁCH TẶNG CHO TRẺ EM
 
Này các con! Đừng vứt cuốn sách này
Hãy gắng giữ mình trước bao tật xấu
Đừng đem cắt những bức hình khỏi đây
Mà hãy giữ sách này như kho báu.
 
Các con là người kế thừa mọi thứ
Tạo ra bằng trí tuệ của ông cha
Những bàn tay xinh đẹp như bông hoa
Không để xé những trang sách này nhé.
 
Những gì tốt đẹp con nên nhận lấy
Và biết bỏ lại những gì xấu xa
Biết học hỏi khi đưa bàn tay ra
Để bắt tay với những người lớn tuổi.
 
Còn trước khi đi ngủ nhớ đừng quên
Đưa bàn tay nhỏ bé cầu nguyện Chúa
Hãy cầu nguyện cho những ai đang ở
Và đang đi vào xứ sở thần tiên.
 
On the Gift of a Book to a Child
 
Child! do not throw this book about!  
   Refrain from the unholy pleasure  
Of cutting all the pictures out!
   Preserve it as your chiefest treasure.
 
Child, have you never heard it said  
   That you are heir to all the ages?
Why, then, your hands were never made
   To tear these beautiful thick pages!
 
Your little hands were made to take
   The better things and leave the worse ones:  
They also may be used to shake
   The Massive Paws of Elder Persons.
 
And when your prayers complete the day,  
   Darling, your little tiny hands
Were also made, I think, to pray  
   For men that lose their fairylands.
 
 

CHIM DODO 
 
Chim dodo thường đi dạo loanh quanh
Đón ánh nắng mặt trời và hít thở.
Mặt trời vẫn sưởi ấm trên đồng cỏ –
Nhưng dodo từ lâu đã không còn!
 
Chim dodo không còn ở trần gian
Tiếng của chim đã im lìm mãi mãi –
Tuy nhiên bạn vẫn có thể nhìn thấy
Mỏ và xương chim trong những bảo tàng.  
_____________
*Dodo (tiếng Latin: Raphinae) – là loài chim không bao giờ bay sống trên quần đảo Mascarene (giữa Ấn Độ dương) đã tuyệt chủng do bị con người săn bắt và do các loài động vật có vú du nhập ăn thịt. Chim Dodo cũng là một nhân vật trong cuốn sách nổi tiếng “Alice ở xứ sở thần tiên” của Lewis Carroll. Chính nhờ cuốn sách này mà dodo được biết đến rộng rãi ở châu Âu và thậm chí đầu thế kỷ 19 nhiều người tin rằng sự tồn tại của loài chim này là một huyền thoại.
 
The Dodo
 
The Dodo used to walk around,
And take the sun and air.
The sun yet warms his native ground—
The Dodo is not there!
 
The voice which used to squawk and squeak
Is now forever dumb —
Yet may you see his bones and beak
All in the Mu-se-um.
 
 
CON BÒ TÂY TẠNG
 
Tôi nghĩ rằng trẻ em rất thích bò
Bởi không cần kỹ năng gì đặc biệt
Cưỡi trên lưng bò chỉ là chuyện vặt
Còn dễ dàng hơn khi dắt bò đi.
 
Người Tây Tạng đã sống từ xa xưa
Trên vùng cao nguyên hoang vu bão tuyết
Con bò trở thành vật nuôi thân thiết
Người Tây Tạng biết rất rõ điều này.
 
Con bảo bố mua cho một con bò
Nếu như người bố của con giàu có
Thì bố sẽ mua ngay, mà có thể
Sẽ không mua, nếu như bố ky bo.
 
The Yak
 
As a friend to the children commend me the Yak.
   You will find it exactly the thing.
It will carry and fetch, you can ride on its back,
   Or lead it about with a string.
 
The Tartar who dwells on the plains of Tibet
   (A desolate region of snow)
Has for centuries made it a nursery pet,
   And surely the Tartar should know!
 
Then tell your papa where the Yak can be got,
   If he is awfully rich
He will buy you the creature – or else he will not.
   (I cannot be positive which.)
 
 
CHIM KỀN KỀN
 
Kền kền thường chỉ ăn một bữa
Đó là lý do tại vì sao
Kền kền không được như chúng ta
Những người luôn mạnh khỏe.
 
Mắt chim mờ, còn đầu chim trơ trụi
Và chim cứ ngày một gầy đi
Đó cũng là bài học cho chúng ta
Cần ăn đủ: sáng, trưa và tối!
 
The Vulture
 
The Vulture eats between his meals,
And that's the reason why
He very, very rarely feels
As well as you or I.
 
His eye is dull, his head is bald,
His neck is growing thinner.
Oh, what a lesson for us all
To only eat at dinner!
 
 
CON TRĂN
 
Tôi khuyên bạn không nên nuôi trăn
Nó hay mắc bệnh sởi, đau mắt hột
Bạn sẽ cảm thấy khó chịu vô cùng.
 
Nhưng nếu như bạn thực sự muốn
Nuôi trăn để trang trí nhà mình
Thì bạn tự mình quyết đinh.
 
Nhưng phải để trăn tránh xa tiếng nhạc
Và nếu trong cơn nổi loạn điên cuồng
Bạn phải trừng phạt nó rất nghiêm khắc.
 
Tôi có người cô ở Yucatan
Mua con trăn từ một người nào đó
Và nuôi giữ nó như con vật cưng.
 
Cô bị chết, bởi vì cô ấy quên
Những quy tắc nhỏ nhặt và đơn giản
Bản chất rắn vẫn sống trong con trăn.
 
The Python
 
A python I should not advise –
It needs a doctor for its eyes
And has the measles yearly.
 
However, if you feel inclined
To get one (to improve your mind ,
And not from fashion merely),
 
Allow no music near its cage;
And when it flies into a rage
Chastise it, most severely.
 
I had an aunt in Yucatan
Who bought a Python from a man
And kept it for a pet.
 
She died , because she never knew
Those simple little rules and few –
The Snake is living yet.  
 
 

SƯ TỬ
 
Sống ở nơi sa mạc
Sư tử có bờm cao
Và to lớn cái đầu
Cái miệng rất khủng khiếp.
 
Tiếng gầm ai cũng sợ
Móng sư tử để trần
Và trẻ em thì không
Chơi đùa cùng sư tử.
 
The Lion
 
The Lion, the Lion, he dwells in the Waste,
He has a big head and a very small waist;
But his shoulders are stark, and his jaws they are grim,
And a good little child will not play with him.  
 
 
HỔ
 
Hổ lại hoàn toàn khác
Là những chú mèo con
Những đứa trẻ nhỏ nhất
Cũng có thể chơi cùng.
 
Những bà mẹ đông con
Đem hổ về nuôi nấng
Thì hổ sẽ trả ơn
Cho những gì phí tổn.
 
The Tiger
 
The tiger, on the other hand,
Is kittenish and mild,
And makes a pretty playfellow
For any little child.
 
And mothers of large families
(Who claim to common sense)
Will find a tiger well repays
The trouble and expense.
 
 

KHỈ ĐẦU CHÓ LỚN
 
Một con khỉ đầu chó
Ở vùng Cariboo
Không mặc áo quần gì
(Mà không hề xấu hổ).
 
Nhưng nếu mặc áo quần
Để bộ râu dài nữa
Thì chú khỉ đầu chó
Sẽ thành một Quý ông!
 
The Big Baboon
 
The Big Baboon is found upon
The plains of Cariboo:
He goes about with nothing on
(A shocking thing to do).
 
But if he dressed up respectably
And let his whiskers grow,
How like this Big Baboon would be
To Mister So-and-so!
 
 
CÁ VOI
 
Những con cá voi ở vùng cực
Không phải thực phẩm để lên bàn
Vì bạn không thể nướng hoặc luộc
Chế biến thành những món ăn.
 
Nhưng có thể lấy mỡ cá voi
Chế biến nó thành chất béo
Rồi bạn dùng sản phẩm này
Thay cho dầu ăn từ hạt cải.
 
Những sự kiện này cần phải biết
Những ai muốn học ở Oxford
Để chứng minh cho vị giáo sư
Mình sẽ là một nhà khoa học.
 
The Whale
 
The Whale that wanders round the Pole
Is not a table fish.
You cannot bake or boil him whole
Nor serve him in a dish;
 
But you may cut his blubber up
And melt it down for oil.
And so replace the colza bean
(A product of the soil).
 
These facts should all be noted down
And ruminated on,
By every boy in Oxford town
Who wants to be a Don.
 
 
CỪU XỨ UÊN
 
Những con cừu xứ Uên
Thuộc loài ngu ngốc nhất
Chuyện trò không sâu sắc
Nhưng khuôn mặt dễ thương!
 
The Welsh Mutton
 
The Cambrian Welsh or Mountain Sheep
Is of the Ovine race,
His conversation is not deep,
But then — observe his face!
 
 

CON VOI
 
Khi người ta nhắc đến con thú này
Có một điều làm người ta kinh ngạc
Nó có cái đuôi rất ngắn phía sau
Và một cái vòi thật dài phía trước.
 
The Elephant
 
When people call this beast to mind,
They marvel more and more
At such a little tail behind,
So large a trunk before.
 
 
GẤU BẮC CỰC
 
Gấu Bắc cực không nhận biết
Cái lạnh cắt da cắt thịt
Vì gấu có một bộ lông
Mà tôi cũng ước cho mình!
 
The Polar Bear
 
The Polar Bear is unaware
Of cold that cuts me through:
For why? He has a coat of hair.
I wish I had one too!
 
 
CON NHÍM
 
Có phải bạn từng đánh con nhím không?
Khổ thân bạn là người không hạnh phúc!
Còn nếu bạn từng đánh nhím hai lần
Than ôi! Bạn là một Tupto-philist*.
 
Kẻ yếu hơn thì bạn cần bảo vệ
Chứ đánh nó thì đó là lỗi lầm
Và tệ hơn – khi bạn đánh con thú
Có những chiếc kim châm ở trên lưng.
______________
*Từ tiếng Hy Lạp cổ τυπτω = Tôi đánh; và φιλεω = Tôi yêu, có nghĩa là người thích đánh. Từ này không có trong tiếng Hy Lạp cổ điển, cũng như không xuất hiện ở các nhà văn thời Phục Hưng cũng như ở bất kỳ nơi nào khác (chú thích của tác giả).
 
The Porcupine
 
What! would you slap the Porcupine?
Unhappy child – desist!
Alas! that any friend of mine
Should be Tupto-philist.
 
To strike the meanest and the least
Of creatures is a sin,
How much more bad to beat a beast
With prickles on its skin.
_____________
*From τυπτω=I strike; φιλεω=I love; one that loves to strike. The word is not found in classical Greek, nor does it occur among the writers of the Renaissance—nor anywhere else.
 
 
TÊ GIÁC
 
Da của bạn xấu lắm nghe tê giác
Tôi với bạn không hề có cảm tình
Sừng của bạn ở nơi không bình thường
Bạn là con thú trông rất gớm ghiếc.
 
To A Rhinoceros
 
Rhinoceros, your hide looks all undone,
You do not take my fancy in the least:
You have a horn where other brutes have none:
Rhinoceros, you are an ugly beast.
 
 
BỌ CẠP
 
Bọ cạp đen như bồ hóng
Đã thế lại rất thích cắn
Đêm mà nó bò lên giường
Làm cho người ta phát hoảng.
 
The Scorpion
 
The Scorpion is as black as soot,
He dearly loves to bite;
He is a most unpleasant brute
To find in bed at night.
 
 
HÀ MÃ
 
Để bắn con hà mã
Phải dùng đạn bạch kim
Bởi dùng đạn bình thường
Da chỉ bị xước nhẹ.
 
The Hippopotamus
 
I shoot the Hippopotamus
With bullets made of platinum,
Because if I use leaden ones
His hide is sure to flatten ’em.
 
 
BUỔI SỚM MAI
 
Trăng một bên, bình minh ở một bên
Bình minh là anh, trăng là chị gái
Trăng bên trái, còn bình minh bên phải
Chào buổi sáng người anh, chúc chị gái ngủ ngon.
 
The Early Morning
 
The moon on the one hand, the dawn on the other;
The moon is my sister, the dawn is my brother.
The moon on my left and the dawn on my right-
My brother, good morning; my sister, good night.

 
 
TAI HẠI TỪ PHỤ NỮ
 
Nếu những tai hại đến từ phụ nữ
Đem đóng vào thùng và vứt xuống sông
Thì cái ác không còn trên thế giới
Và đàn ông cãi nhau cũng không cần!
 
If all the harm the women do
 
If all the harm the women do
Were put into a barrel
And taken out and drowned in Looe
Why, men would never quarrel!
 
 
OBEAM LIBENS
 
Em cứ chửi tôi nhưng hãy nhớ rằng
Trong thơ mình tượng đài em tôi dựng
Nhưng nếu em nói những lời âu yếm
Thì tôi sẽ đem đốt hết thơ mình.
 
Obeam Libens
 
Insult, despise me; what you can’t prevent
Is that my verse shall be your monument.
But, Oh my torment, if you treat me true
I’ll cancel every line, for love of you.
 
 
VỀ SÁCH CỦA TÔI
 
Khi tôi chết, hy vọng người ta sẽ nói rằng:
“Ông nhiều tội lỗi nhưng người đời đọc sách ông”.
 
On His Books
 
When I am dead, I hope it may be said:
“His sins were scarlet, but his books were read.”
 
 
MỆT MỎI
 
Tình và Thơ – hai thứ làm tôi mệt
Nhưng Tiền cho tôi niềm vui mọi lúc.
 
Fatigue
 
I’m tired of Love: I’m still more tired of Rhyme.
But Money gives me pleasure all the time.
 
 
TÌNH YÊU BUỒN
 
Tình yêu buồn, nhưng buồn hơn khi tình chẳng có
Và yêu mà không được yêu mới là điều tai họa.
 
From the Same
 
Love’s self is sad. Love’s lack is sadder still.
But loved unloved, O, that’s the greatest ill!
 
 
VỀ ĐÔI MẮT
 
Đôi mắt đen như mời gọi, đôi mắt như ngọc lam
Hứa hẹn thiên đường, nhưng mắt em màu xanh.
 
On Eyes
 
Dark eyes adventure bring; the blue serene
Do promise paradise: and yours are green.
 
 
VỀ ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI
 
Tôi giống như đồng hồ mặt trời quay ngược
Trả năm mươi đồng cho cô tình nhân dại dột.
 
On Another
 
I am a sundial, turned the wrong way round.
I cost my foolish mistress fifty pound.
 
 
CHỮ KHẮC TRÊN ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI
 
Trườn đi chiếc bóng, đánh dấu sự già nua của tôi.
Tôi không thể ngăn cản ngươi dù chỉ một phút giây.
 
On a Sundial
 
Creep, shadow, creep: my aging hours tell.
I cannot stop you, so you may as well.
 
 
GẦN GŨI
 
Một giọt máu đào hơn ao nước lã -
Và mãi mãi sẽ vẫn là như thế.
 
Kinship
 
Blood is thicker than water –
And so it oughter.
 
 
THỜI GIAN CHỮA LÀNH
 
Anh tự hào – dù trước đây xấu hổ –
Rằng em là người anh yêu hơn tất cả.
 
Time Curses All
 
It was my shame, and now it is my boast,
That I have loved you rather more than most.
 
 
MANG THEO MÌNH
 
Thơ, văn xuôi và những lời nguyền rủa
Hilary mang theo mình xuống mộ.
 
His prose and his verse
 
His prose and his verse, and a touch of curse
Will accompany Hilary up to his Hearse.
 
 
TRÒ CHUYỆN VỀ THƠ DỞ
 
William, thơ cậu
Quả đa dạng vô cùng
Một số bài – thơ dở
Số còn lại – tệ hơn.
 
Talking on Bad Verse
 
William, you vary greatly in your verse;
Some’s none too good, but all the rest is worse.
 
 
QUYỀN THẾ CỦA ÔNG
 
Với người già – người ta thường nói rằng
Hút xì gà có hại cho sức khỏe
Uống rượu nặng thì lại còn tệ nữa
Nhưng có một thứ nguy hiểm vô cùng
Không có gì chết người bằng cảm lạnh.
 
His Lordship
 
I have often been credibly told,
That when people are awfully old
Though cigars are a curse
And strong waters are worse
There is nothing so fatal as cold.
 

Thơ Alan Alexander Milne

 


Alan Alexander Milne (18 tháng 1 năm 1882 – 31 tháng 1 năm 1956) – nhà văn, nhà thơ Anh, rất nổi tiếng với những cuốn sách về gấu bông Winnie-the-Pooh và những bài thơ cho trẻ em.
 
Tiểu sử
Milne sinh ở Kilburn, Luân Đôn, học tại một trường tư thục nhỏ do cha ông, John Vine Milne làm chủ. Một trong những người thầy của ông từ năm 1889 đến năm 1890 là Herbert Wells. Sau đó, ông vào học Trường Westminster, và sau đó nữa tại Cao đẳng Trinity (Cambridge), nơi ông nghiên cứu toán học từ năm 1900 đến 1903. Khi còn là sinh viên, ông đã viết bài cho tờ báo sinh viên “Granta”. Ông thường viết bài với anh trai Kenneth của mình, và họ lấy bút danh là AKM. Những bài viết của Milne được chú ý và tạp chí truyện tranh “Punch” bắt đầu hợp tác với ông, sau này Milne trở thành trợ lý biên tập ở đó.
 
Milne gia nhập Quân đội Anh trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và là một sĩ quan trong Trung đoàn Royal Warwickshire.  Ngày 7 tháng 7 năm 1916, ông bị thương trong trận Somme và được trở về Anh. Sau khi hồi phục sức khỏe, ông được tuyển dụng vào Tình báo quân sự để viết các bài báo tuyên truyền cho MI7 từ năm 1916 đến năm 1918. Ông xuất ngũ ngày 14 tháng 2 năm 1919 với quân hàm trung úy.
 
Milne kết hôn với Dorothy de Sélincourt (1890–1971) năm 1913 và con trai duy nhất của họ là Christopher Robin Milne sinh năm 1920. Năm 1925, Milne mua một ngôi nhà nông thôn, Cotchford Farm, ở Hartfield, hạt Đông Sussex.
 
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Milne là đội trưởng một đội bảo vệ ở Hartfield & Forest Row. Ông nghỉ hưu ở trang trại của mình sau một cơn đột quỵ và phẫu thuật não vào năm 1952 khiến ông trở nên tàn tật. Milne qua đời vào tháng 1 năm 1956, thọ 74 tuổi.
 
Tác phẩm chính
*Những người tình ở London (Lovers in London, 1905)
*Thời xa vắng (Once on a Time, 1917)
*Winnie-the-Pooh, 1926
*Ngôi nhà ở góc Pooh (The House at Pooh Corner, 1928)
*Khi ta còn rất trẻ (When We Were Very Young, 1924)
*Giờ ta lên sáu (Now We Are Six, 1927)
*Bí ẩn của ngôi nhà màu đỏ (The Red House Mystery, 1922)
*Quá muộn rồi (It's Too Late Now: The Autobiography of a Writer, 1939) 
 
8 bài thơ
 


NHỮNG CÁI ĐUÔI
 
Con sư tử có cái đuôi tuyệt vời
Voi có đuôi, và cá voi cũng vậy
Cá sấu có đuôi, chim công cũng thế
Ai cũng có đuôi cả, chỉ mình tôi.
 
Nếu có tiền, tôi sẽ mua cái đuôi
Với người bán hàng: “Hãy cho tôi thử”
Rồi với voi: “Đây là đuôi tôi nhé”
Để tất cả đi vòng và ngắm nhìn tôi.
 
Và tôi nói với sư tử, với cá voi:
“Bây giờ tôi không còn ghen với bạn
Bạn hãy đi vòng quanh và hãy ngắm
Tôi đã sắm cho mình một cái đuôi”.
 
Tails
 
A lion has a tail and a very fine tail,
And so has an elephant, and so has a whale,
And so has a crocodile, and so has a quail–
They’ve all got tails but me.
 
If I had sixpence I would buy one;
I’d say to the shopman, ‘Let me try one’;
I’d say to the elephant, ‘This is my one.’
They’d all come round to see.
 
Then I’d say to the lion, ‘Why, you’ve got a tail!
And so has the elephant, and so has the whale!
And, look! There’s a crocodile! He’s got a tail!
You’ve all got tails like me!’
 
 
GIÓ TRÊN ĐỒI
 
Ai nói với tôi
Không ai biết cả
Gió từ đâu tới
Gió đi về đâu.
 
Gió đến từ đâu
Mà nhanh như vậy
Nếu như tôi chạy
Cũng không thể theo.
 
Nhưng nếu con diều
Giữa trời tôi thả
Diều bay theo gió
Suốt đêm suốt ngày.
 
Còn nếu tôi thấy
Nơi con diều rơi
Thì tôi biết ngay
Nơi gió ngừng thổi.
 
Thành ra như vậy
Gió từ đâu tới
Gió đi về đâu
Không ai biết cả.
 
Wind on the Hill
 
No one can tell me,
Nobody knows,
Where the wind comes from,
Where the wind goes.
 
It's flying from somewhere
As fast as it can,
I couldn't keep up with it,
Not if I ran.
 
But if I stopped holding
The string of my kite,
It would blow with the wind
For a day and a night.
 
And then when I found it,
Wherever it blew,
I should know that the wind
Had been going there too.
 
So then I could tell them
Where the wind goes...
But where the wind comes from
Nobody knows.
 
 


HOA THỦY TIÊN
 
Mặc váy màu xanh thắm
Đội chiếc mũ màu vàng
Hướng về ngọn gió nam
Phất phơ lên rồi xuống.
 
Hoa cười với mặt trời
Mái đầu hoa cúi xuống
Nói với hoa hàng xóm:
“Mùa đông đã chết rồi”.
 
Daffodowndilly
 
She wore her yellow sun-bonnet,
She wore her greenest gown;
She turned to the south wind
And curtsied up and down.
 
She turned to the sunlight
And shook her yellow head,
And whispered to her neighbour:
"Winter is dead."
 
 
GIÁ NHƯ TÔI LÀ VUA
 
Tôi thường ước mình là Vua,
Để có thể làm bất cứ điều gì.
 
Giá như tôi là Vua Tây Ban Nha
Thì tôi sẽ ngả mũ trong mưa.
 
Giá như tôi là Vua nước Pháp
Thì tôi sẽ thuê người chải tóc.
 
Còn nếu tôi là Vua của Hy Lạp
Thì lò sưởi riêng cho mình sẽ dập.
 
Còn nếu tôi là Vua của Na Uy
Tôi sẽ bắt những người hầu nuôi voi.
 
Nếu tôi là Vua của Babylon
Tôi sẽ bỏ găng tay của mình.
 
Nếu tôi là Vua của Timbuctoo
Tôi sẽ làm bất cứ điều gì.
 
Nếu tôi là Vua của xứ sở bất kỳ
Tôi sẽ nói với lính: “Ta là Vua!”
 
If I Were King
 
I often wish I were a King,
And then I could do anything.
 
If only I were King of Spain,
I'd take my hat off in the rain.
 
If only I were King of France,
I wouldn't brush my hair for aunts.
 
I think, if I were King of Greece,
I'd push things off the mantelpiece.
 
If I were King of Norroway,
I'd ask an elephant to stay.
 
If I were King of Babylon,
I'd leave my button gloves undone.
 
If I were King of Timbuctoo,
I'd think of lovely things to do.
 
If I were King of anything,
I'd tell the soldiers, "I'm the King!"

 
 
CUNG ĐIỆN BUCKINGHAM
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
Alice kết hôn với một trong những người lính gác.
“Cuộc sống của người lính là rất khó khăn”
Alice giải thích.
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
Chúng tôi thấy người lính trong bục gác.
“Trung sĩ đang nhìn xuống tất của mình”
Alice giải thích.
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
Chúng tôi chờ xem nhà Vua, nhưng vô ích
“Họ canh gác cho nhà Vua của mình”
Alice giải thích.
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
Họ tổ chức đại tiệc bên trong cung điện
“Quả thật làm Vua cũng đâu có sướng”
Alice phân trần.
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
Cứ tưởng Vua bước ra, nhưng không phải
“Nhà Vua công việc vùi đầu ấy chứ”
Alice phân trần.
 
Phiên đổi gác tại cung điện Buckingham -
Alice đi xuống với Christopher Robin.
“Có phải mọi chuyện nhà Vua đã biết?”
“Tất nhiên, nhưng đã đến lúc uống trà”
Alice giải thích.
 
Buckingham Palace
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
Alice is marrying one of the guard.
“A soldier’s life is terrible hard,”
Says Alice.
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
We saw a guard in a sentry-box.
“One of the sergeants looks after their socks,”
Says Alice.
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
We looked for the King, but he never came.
“Well, God take care of him, all the same,’
Says Alice.  
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
They’ve great big parties inside the grounds.
“I wouldn’t a King for a hundred of pounds,”
Says Alice.
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
A face looked out, but it wasn’t  the King’s
“He’s much too busy a-smiling things,”
Says Alice.
 
They’re changing guard at Buckingham palace –
Christopher Robin went down with Alice.
“Do you thing the King knows all about me?”
“Sure to, but it’s time for tea”,”
Says Alice.
 
 
NHƯNG
 
Tôi ngỡ mình là một con chó con
Tôi ngỡ mình là con lạc đà gù lưng
Đang đi tìm một con lạc đà khác
Tìm một con lạc đà trẻ của mình.
 
But
 
I think I am a Puppy, so I am hanging out my tongue;
I think I am a Camel who
Is looking for a Camel who
Is looking for a Camel who is looking for his young.
 
 

CÚN VÀ TÔI
 
Tôi gặp một người Đàn ông
Khi tôi đi bộ trên đường
Và chúng tôi trò chuyện
“Ông đi đâu đấy?” tôi gợi chuyện
(Khi người Đàn ông đi ngang).
“Đi xuống làng tìm chút bánh.
Đi cùng tôi không?” “Không, tôi bận”
 
Tôi gặp một con Ngựa
Khi tôi đi bộ trên đường
Và chúng tôi hàn huyên
“Bạn đang đi đâu vậy Ngựa?”
(Tôi nói với Ngựa khi đi ngang).
“Đi xuống làng, kiếm chút cỏ.
Đi cùng tôi chứ?” “Không, tôi không”
 
Tôi gặp người Phụ nữ
Khi tôi đi bộ trên đường
Và chúng tôi hàn huyên
“Chị đi đâu mà sớm vậy?”
(Tôi nói với Chị khi đi ngang).
“Đi xuống làng lấy lúa.
Đi cùng tôi chứ?” “Không, tôi không”.
 
Tôi gặp một đàn Thỏ
Khi tôi đi dạo trên đường
Và chúng tôi hàn huyên
“Các bạn đang đi đâu mà lông xám ngắt?
(Tôi nói với Thỏ khi chúng đi ngang).
“Đi xuống làng để lấy yến mạch.
Đi cùng chứ?” “Không, tôi không”.
 
Tôi gặp một con Cún
Khi tôi đi dạo trên đường
Và chúng tôi trò chuyện
“Bạn sẽ đi đâu trong ngày đẹp trời?”
(Tôi nói với Cún khi đi qua tôi).
“Đi lên đồi để lăn và để chơi.”
“Vậy thì hãy cho tôi đi cùng” – tôi nói.
 
Puppy and I
 
I met a Man as I went walking;
We got talking,
Man and I.
“Where are you going to, Man?” I said
(I said to the Man as he went by).
“Down to the village, to get some bread.
Will you come with me?” “No, not I.”
 
I met a Horse as I went walking;
We got talking,
Horse and I.
“Where are you going to, Horse, to-day?
(I said to the Horse as he went by).
“Down to the village, to get some hay.
Will you come with me?” “No, not I.”
 
I met a Woman as I went walking;
We got talking,
Woman and I.
“Where are you going to, Woman, so early?”
(I said to the Woman as he went by).
“Down to the village to get some barley.
Will you come with me?” “No, not I.”
 
I met some Rabbits as I went walking;
We got talking,
Rabbits and I.
“Where are you going in your brown fur coats?
(I said to the Rabbits as they went by).
“Down to the village to get some oats.
Will you come with us?” “No, not I.”
 
I met a Puppy as I went walking;
We got talking,
Puppy and I.
“Where are you going this nice fine day?
(I said to the Puppy as he went by).
“Up in the hills to roll and play.”
“I’ll come with you, Puppy,” I said.
 
 
NẾU TÔI CÓ CON LỪA
 
Nếu tôi có con lừa
Mà nó không chịu đi
Thì tôi sẽ không đánh
Không, không bao giờ.
 
Tôi đưa nó vào chuồng
Tôi cho nó ăn rơm
Chú lừa nhỏ tội nghiệp
Không cần đi kiếm ăn.
 
If I had a Donkey
 
If I had a donkey,
That wouldn't go.
Do you think I'd beat him?
No, no, no.
 
I’d put him in the stable
And give him some straw,
And the poor little donkey
Wouldn’t work any more.
 

Thơ Matthew Arnold

 


Matthew Arnold (24 tháng 12 năm 1822 – 15 tháng 4 năm 1888) – nhà thơ, nhà phê bình văn hóa người Anh, một trong những học giả văn học và nhà tiểu luận được kính trọng nhất của thời kỳ Victoria. Ông cũng là người khởi nguồn cho phong trào đổi mới Giáo hội Anh.
 
Tiểu sử
Con trai của Thomas Arnold, người đã điều hành một trường tư nhân trong 13 năm. Trong thời gian học tại Đại học Oxford, ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của John Henry Newman và các nhà lãnh đạo khác của phong trào Oxford.
 
Về chuyên môn, Arnold là thanh tra của các trường học cấp tỉnh, đã đi rất nhiều nơi trên đất nước Anh. Ông đề cao thơ ca, là thứ đối với con người hiện đại sẽ thay thế cho tôn giáo, bởi vì hướng về thơ ca, con người hướng đến sự giải thích cuộc sống, tìm kiếm sự hỗ trợ và an ủi về mặt đạo đức trong đó.
 
Arnold coi các tác giả Hy Lạp và La Mã là hình mẫu cho các nhà thơ hiện đại. Người ta cũng thấy được sự ngưỡng mộ của Matthew đối với thời Trung cổ - những nền văn minh có sự hòa hợp rõ ràng với trật tự thế giới đương thời, sự bất hoàn hảo và hỗn loạn của nó. Thơ của ông được những người đương thời đánh giá cao đến nỗi vào năm 1857, ông được bầu làm Chủ tịch Hội thơ Oxford.
 
Arnold Matthew qua đời tại Liverpool vào ngày 15 tháng 4 năm 1888.
 
2 bài thơ
 


NHỮNG DÒNG THƠ TƯỞNG NIỆM THÁNG 4-1850
 
Goethe ngủ ở Weimar, còn trên đất  Hy Lạp
Cuộc đấu tranh của Byron từ lâu đã không còn
Nhưng cái chết như vậy vẫn còn phía trước
Một giọng thơ cuối cùng cũng đã lặng im
Chúng tôi đang đứng bên mộ của Wordsworth.
 
Khi đôi mắt của Byron im bặt trong cái chết
Chúng tôi cúi đầu và trong hơi thở lặng im
Ông dạy chỉ ít thôi, nhưng đi vào tâm hồn
Của chúng tôi giống như là sấm sét.
Với trái tim run rẩy, chúng tôi nhìn xung đột
Của đam mê với qui luật vĩnh hằng
Chúng tôi dõi theo trong cảm xúc rung rinh
Cuộc sống dường như đang cháy lên sáng rực
Tất cả đều dành cho một cuộc đấu tranh.
 
Khi Goethe qua đời thì chúng tôi hiểu rằng
Châu Âu đã mất một bộ óc thông minh nhất
Ông là người thầy thuốc của thời kỳ đồ sắt
Goethe đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.
Ông thấy đau khổ của con người ở chốn trần gian
Ông đọc từng vết thương, từng nơi yếu nhất
Rồi ông chỉ ngón tay và nói rất cương quyết
Đây chính là nơi mà bệnh tật đã phát sinh!
 
Ông nhìn ra giờ khắc mà châu Âu lụi tàn
Trong sức mạnh điên rồ, ước mơ cuồng nhiệt
Đôi mắt của ông nhìn vào nơi xung đột
Vào sự ngắn ngủi của đời sống con người
Và ông nói: sự kết thúc ở khắp mọi nơi
Nhưng có một nơi nương tựa đó là nghệ thuật!
Và con người ta vẫn hạnh phúc, nếu biết
Tìm nguyên nhân sự việc, nhìn từ phía trên
Xuống đôi chân để thấy máu người đang rót
Vì mù quáng, cuồng điên, vì sự kinh hoàng
Vì số phận của mình, để tìm ra hạnh phúc.
 
Và bây giờ Wordsworth dưới mộ, hãy vui mừng!
Vì chưa bao giờ có giọng nói êm dịu như vậy.
Thế giới của bóng đêm, chúng tôi chưa từng tới
Nhưng kể từ khi có chiếc bóng lang thang
Nghe ra rõ ràng những bài hát của thần tiên
Xuyên qua địa ngục và sự âm u buồn thảm.
Wordsworth đã từ giã chúng tôi và các bạn
Giá mà, như chúng tôi, nghe được giọng của ông!
Và chính ông cũng đã từng có một thời gian
Gục ngã dưới sức nặng của những năm tháng tàn nhẫn
Vì những nghi ngờ, tranh cãi và bao nhiêu lo lắng
Ông đã đến với chúng tôi trong thế kỷ của mình
Linh hồn bị xiềng xích và lao vào một mê cung
Ông nói và hồi sinh trái tim của chúng tôi bằng nước mắt.
Chúng tôi giống như một đứa bé trong nôi đang nằm
Trong sự mát mẻ của cỏ hoa mọc đầy trên mặt đất
Cảm thấy nhẹ nhàng và cười mỉm với chính mình.
 
Có những ngọn đồi ở xung quanh và gió
Và mặt trời lại tỏa sáng cánh đồng xưa
Trán của chúng tôi cảm thấy gió và mưa.
Tuổi trẻ của chúng tôi trở về vì đang có
Những linh hồn vốn đã chết từ xưa
Những linh hồn đã khô khan đang trả lại
Vẻ tươi mát tuyệt vời từ thế giới hoang sơ.
 
Ôi, trong những ngày tối tăm từ bao thế kỷ
Vẫn sinh ra trí tuệ và sức mạnh của người trần
Có thể là thời gian sẽ vẫn còn ban cho nữa
Trí tuệ như Goethe, sức mạnh như Byron
Nhưng nơi nào ở châu Âu trong giờ cuối cùng
Còn tìm ra người có sức chữa lành như Wordsworth?
Những người khác nói rằng cần phải đấu tranh
Cần chống lại nỗi kinh hoàng bằng cách che áo giáp
Và trở nên mạnh mẽ giống như chúa sơn lâm
Nhưng ai sẽ trả lại cho ta cảm giác yên bình
Trước đám mây của số phận không thương tiếc?
Ừ thì những người khác rồi sẽ sẵn sàng đối mặt
Nhưng còn ai như ông xé những đám mây đen?
 
Hãy giữ gìn cỏ xanh trên ngôi mộ của ông
Hỡi Rotha, cùng làn sóng của ngươi sống động!
Hãy hát cho ông nghe những bài ca tuyệt đỉnh
Và ông sẽ nghe ra, dù từ chốn xa xăm.
 
Memorial Verses April 1850
 
Goethe in Weimar sleeps, and Greece,
Long since, saw Byron's struggle cease.
But one such death remain'd to come;
The last poetic voice is dumb—
We stand to-day by Wordsworth's tomb.
 
When Byron's eyes were shut in death,
We bow'd our head and held our breath.
He taught us little; but our soul
Had felt him like the thunder's roll.
With shivering heart the strife we saw
Of passion with eternal law;
And yet with reverential awe
We watch'd the fount of fiery life
Which served for that Titanic strife.
 
When Goethe's death was told, we said:
Sunk, then, is Europe's sagest head.
Physician of the iron age,
Goethe has done his pilgrimage.
He took the suffering human race,
He read each wound, each weakness clear;
And struck his finger on the place,
And said: Thou ailest here, and here!
 
He look'd on Europe's dying hour
Of fitful dream and feverish power;
His eye plunged down the weltering strife,
The turmoil of expiring life—
He said: The end is everywhere,
Art still has truth, take refuge there!
And he was happy, if to know
Causes of things, and far below
His feet to see the lurid flow
Of terror, and insane distress,
And headlong fate, be happiness.
 
And Wordsworth!—Ah, pale ghosts, rejoice!
For never has such soothing voice
Been to your shadowy world convey'd,
Since erst, at morn, some wandering shade
Heard the clear song of Orpheus come
Through Hades, and the mournful gloom.
Wordsworth has gone from us—and ye,
Ah, may ye feel his voice as we!
He too upon a wintry clime
Had fallen—on this iron time
Of doubts, disputes, distractions, fears.
He found us when the age had bound
Our souls in its benumbing round;
He spoke, and loosed our heart in tears.
He laid us as we lay at birth
On the cool flowery lap of earth,
Smiles broke from us and we had ease;
 
The hills were round us, and the breeze
Went o'er the sun-lit fields again;
Our foreheads felt the wind and rain.
Our youth return'd; for there was shed
On spirits that had long been dead,
Spirits dried up and closely furl'd,
The freshness of the early world.
 
Ah! since dark days still bring to light
Man's prudence and man's fiery might,
Time may restore us in his course
Goethe's sage mind and Byron's force;
But where will Europe's latter hour
Again find Wordsworth's healing power?
Others will teach us how to dare,
And against fear our breast to steel;
Others will strengthen us to bear—
But who, ah! who, will make us feel?
The cloud of mortal destiny,
Others will front it fearlessly—
But who, like him, will put it by?
 
Keep fresh the grass upon his grave,
O Rotha, with thy living wave!
Sing him thy best! for few or none
Hears thy voice right, now he is gone.
 
 
KHÁT KHAO CHÁY BỎNG
 
Em hãy đến trong giấc mơ của anh
Để cho đêm trở thành niềm vui sướng!
Để cho ngày khổ đau vì buồn chán
Được thỏa khát khao cháy bỏng về đêm.
 
Em cứ đến như vẫn đến bao lần
Là sứ giả của những miền tươi sáng
Đem nụ cười cho thế gian sưởi ấm
Hãy vui, như cùng người khác, với anh!
 
Em hãy đến lúc này, chớ ngại ngùng
Để anh tin ước mơ thành hiện thực
Hãy hôn lên bờ môi, lên mái tóc
Và hỏi rằng: “Anh yêu dấu, sao buồn?”
 
Em hãy đến trong giấc mơ của anh
Để cho đêm trở thành niềm vui sướng!
Để cho ngày khổ đau vì buồn chán
Được thỏa khát khao cháy bỏng về đêm.
 
Longing
 
Come to me in my dreams, and then
By day I shall be well again!
For then the night will more than pay
The hopeless longing of the day.
 
Come, as thou cam’st a thousand times,
A messenger from radiant climes,
And smile on thy new world, and be
As kind to all the rest as me.
 
Or, as thou never cam’st in sooth,
Come now, and let me dream it truth;
And part my hair, and kiss my brow,
And say: My love! why sufferest thou?
 
Come to me in my dreams, and then
By day I shall be well again!
For then the night will more than pay
The hopeless longing of the day.
 

Thơ John Dryden

 


John Dryden (19 tháng 8 năm 1631 – 12 tháng 5 năm 1700) – nhà thơ, nhà viết kịch, nhà phê bình người Anh. Ảnh hưởng của ông đối với những người đương thời lớn đến mức giai đoạn từ 1660 đến 1700 trong lịch sử văn học Anh thường được gọi là “Thời đại Dryden”. Nhà thơ nổi tiếng T.S. Eliot gọi ông là một trong ba đại diện vĩ đại nhất (cùng với Shakespeare và Milton) của văn học Anh thế kỷ 17.
 
Tiểu sử
John Dryden sinh ngày 19 tháng 8 năm 1631 tại Aldwincle, Northamptonshire, học tại Trường Westminster và Cao đẳng Trinity (Cambridge). Ông dành cả cuộc đời mình cho sáng tạo văn học. Ông làm thơ, viết kịch bản phim truyền hình, văn xuôi. Ông dịch rất nhiều từ tiếng Pháp và tiếng Latinh (bao gồm cả “Aeneid” của Virgil). Về mặt mỹ học, ông tôn trọng những hình tượng của chủ nghĩa cổ điển Pháp (Boileau, Moliere, La Fontaine).
 
Thời trẻ, Dryden là một đảng viên Cộng hòa Thanh giáo, và sau đó –  với sự phục hồi của triều đại Stuart – chuyển sang khuynh hướng đối diện. Trong các vở hài kịch xuất sắc “Marriage A-la-Mode” và bi kịch “All for Love” – chuyển thể từ “Antony and Cleopatra” của Shakespeare, “Oedipus” (đồng tác giả với Nathaniel Lee), Dryden đã chống lại các đối thủ chính trị của triều đại Stuart.
 
Tác phẩm văn xuôi lớn nhất của Dryden là “Về kịch thơ” (An Essay of Dramatick Poesie, 1668). Với một sự tôn trọng dành cho Shakespeare, Ben Johnson và những người tiền nhiệm lớn khác của ông, Dryden nói về những “khiếm khuyết” trong các tác phẩm của họ xét theo quan điểm từ học thuyết Mỹ học của Aristotle về ba sự thống nhất (thống nhất về hành động; thống nhất về nơi chốn; thống nhất về thời gian).
 
Dryden qua đời vào ngày 12 tháng 5 năm 1700, ban đầu được chôn cất tại nghĩa trang Thánh Anne ở Soho, trước khi được khai quật và cải táng ở Tu viện Westminster mười ngày sau đó. Ông là chủ đề của những bài văn tế thơ, chẳng hạn như “Luctus Brittannici” hay “Nước mắt của những nàng thơ Anh”… 
 
3 bài thơ
 

KHÚC CA TỪ “AMPHYTRYON”
 
Tôi yêu Iris, yêu đến mức đau khổ
Không bờ môi, chẳng ánh mắt tuyệt vời
Mà yêu tính tình nông nổi, dễ đổi thay
Và tôi cũng dối gian, thích đổi thay như thế
Chúng tôi không tin nhau một điều gì cả
Chúng tôi giấu nhau trước mặt mọi người.
 
Và tất nhiên cũng chẳng ai thề thốt với ai
Chúng tôi chỉ vui với những lời qua lại
Gặp nhau thì yêu, còn chia tay cũng thế
Chẳng nàng hay tôi cảm thấy khổ đau
Không hát bằng những truyền thuyết tình yêu
Đến với nhau dễ dàng thì ra đi cũng dễ.
 
Song. From “Amphitryon”
 
Fair Iris I love and hourly I die,
But not for a lip nor a languishing eye:
She's fickle and false, and there I agree;
For I am as false and as fickle as she:
We neither believe what either can say;
And, neither believing, we neither betray.
 
'Tis civil to swear and say things, of course;
We mean not the taking for better or worse.
When present we love, when absent agree;
I think not of Iris, nor Iris of me:
The legend of love no couple can find
So easy to part, or so equally join'd.
 
 
NGƯỜI HẠNH PHÚC
 
Người hạnh phúc là người có thể gọi
Rằng hôm nay là ngày của chính mình
Là người cảm thấy an toàn và có thể nói
Ngày mai dù trời sập thì hôm nay cũng đã xong.
 
Dù đẹp hay xấu, dù trời mưa hay nắng
Những niềm vui của tôi vẫn thuộc về tôi
Ngay cả trời cũng không thể nào ảnh hưởng
Những ngày đã qua tôi đã sống tuyệt vời.
 
Happy the Man
 
Happy the man, and happy he alone,
He who can call today his own:
He who, secure within, can say,
Tomorrow do thy worst, for I have lived today.
 
Be fair or foul or rain or shine,
The joys I have possessed, in spite of fate, are mine.
Not heaven itself upon the past has power,
But what has been, has been, and I have had my hour.
 
 

THƠ TRÀO PHÚNG VỀ MILTON
 
Ba nhà thơ sinh ra trong ba thời đại xa xăm
Một người Hy Lạp, một người Ý, một người Anh
Người đầu tiên với những nghĩ suy vượt trội
Tiếp theo là độ lớn trong cả hai người cuối
Sức mạnh của thiên nhiên không thể đi xa hơn
Người thứ ba đã kết hợp với hai người vừa nói.
_____________
*Ba nhà thơ: Homer, Virgil và Milton.
 
Epigram on Milton
 
Three poets, in three distant ages born
Greece, Italy, and England did adorn
The first in loftiness of thought surpassed
The next in majesty, in both the last:
The force of Nature could no farther go;
To make a third, she joined the former two