Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020

Thơ Robert Louis Stevenson

 
Robert Louis Stevenson (tên khai sinh: Robert Lewis Balfour Stevenson, 13 tháng 11 năm 1850 – ngày 3 tháng 12 năm 1894) – nhà văn, nhà thơ người Scotland, tác giả của tiểu thuyết phiêu lưu và truyện ngắn, một đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa tân lãng mạn.
Tiểu sử:
Robert Louis Stevenson sinh ngày 13 tháng 11 năm 1850 tại Edinburgh, Scotland. Cha của ông, Thomas Stevenson là con của một gia đình kỹ sư cha truyền con nối, một chuyên gia về hải đăng, người đã xây dựng hầu hết các ngọn hải đăng quanh bờ biển Scotland. 
 
Năm 1867, ông vào Đại học Edinburgh nhưng trái với truyền thống gia đình nghiên cứu khoa học tự nhiên để trở thành kỹ sư xây dựng, ông dành nhiều thời gian hơn cho văn học Pháp và lịch sử Scotland. Cuối cùng, khi đã quyết định học luật, năm 1875 ông tốt nghiệp đại học và nhận được danh hiệu luật sư.
 
Năm lên 18 tuổi, Stevenson từ chối cái tên được đặt cho ông trong lễ rửa tội. Ông đã loại trừ hoàn toàn cái tên Belfour, và cái tên Lewis, thay đổi cách đánh vần từ Lewis thành Louis, trong khi cách phát âm không thay đổi.
 
Những thành công đầu tiên trong lĩnh vực văn học và sức khỏe kém đã làm cho ông thích văn học hơn vào quán bar. Vào cuối những năm 1870, ông đi du lịch đến Pháp, Đức và quê hương Scotland, kết quả là hai cuốn sách về những ấn tượng du lịch đầu tiên xuất hiện: “Du lịch trong đất nước” (Edinburgh: Picturesque Notes, 1878) và “Du lịch với một con lừa ở Cévennes” (Travels with a Donkey in the Cévennes, 1879). Các tiểu luận được viết trong giai đoạn này được ông tập hợp trong một cuốn sách có tên Latin là “Virginibus Puerisque, 1881”.
 
Bước ngoặt trong cuộc sống cá nhân của Stevenson là cuộc gặp gỡ vào tháng 9 năm 1876 với Fanny Osbourne, một người thích vẽ tranh và đã kết hôn. Người phụ nữ này lớn hơn ông 10 tuổi. Năm 1878 Fanny Osbourne ly dị chồng, năm 1880 kết hôn với Stevenson. Ông kết bạn với các con của vợ mình, sau đó con trai riêng của vợ ông, Lloyd Osbourne trở thành đồng tác giả của các cuốn sách: “Sai lầm” (The Wrong Box, 1889), “Đắm tàu” (The Wrecker, 1892) và “Nước ròng” (The Ebb-Tide, 1894).
 
Năm 1880, Stevenson được chẩn đoán mắc bệnh lao. Để tìm một nơi có khí hậu tốt cho sức khỏe, ông đã đến thăm Thụy Sĩ, miền nam nước Pháp, Bournemouth, Anh, từ năm 1887 đến 1888, ông sống ở hồ Saranac thuộc bang New York, Mỹ. Một phần do sức khỏe yếu, một phần để thu thập tài liệu cho việc sáng tác, Stevenson cùng vợ và con trai riêng đã đi du thuyền đến phía nam Thái Bình Dương. Họ đến thăm một số quần đảo ở nam Thái Bình Dương, Úc và mua một mảnh đất ở Samoa, ông quyết định định cư ở vùng nhiệt đới trong một thời gian dài. Ông làm cho mình một căn nhà gỗ 2 tầng ở làng Wailima. Khí hậu của hòn đảo đã mang lại lợi ích cho nhà văn: một số tác phẩm hay nhất của ông được viết trong ngôi nhà rộng rãi và nhiều cây cối ở Wailima.
 
Cuốn tiểu thuyết “Đảo châu báu” (Treasure Island) đã mang lại danh tiếng thế giới cho nhà văn, nó đã trở thành một ví dụ kinh điển của văn học phiêu lưu. Stevenson đã xuất bản các tập thơ “Vườn thơ của trẻ” (A Child's Garden of Verses, 1885), “Những khóm cây thấp” (Underwoods, 1887) và những bài ballad khác. Những bài thơ và những bản ballad của ông theo tinh thần thơ ca dân gian được viết bằng một ngôn ngữ giản dị và rõ ràng.
 
Ngày 3 tháng 12 năm 1894 Robert Stevenson đột ngột qua đời vì xuất huyết não. Ông được chôn cất tại một trong những hòn đảo của Samoa.
 
Stevenson đã làm hồi sinh tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết lịch sử ở Anh. Nhưng ông thích phiêu lưu chỉ vì mục đích phiêu lưu. Trong tiểu thuyết lịch sử, ông từ chối mô tả các sự kiện công cộng lớn, hạn chế các tác phẩm thể hiện cuộc phiêu lưu của các anh hùng và lịch sử chỉ phục vụ như một bối cảnh ngẫu nhiên.
 
Vào tháng 12 năm 1969, Bảo tàng Robert Lewis Stevenson đã được khai trương tại thị trấn Wailima ở Samoa. Bảo tàng nằm trong ngôi nhà mà Stevenson đã trải qua những năm cuối đời (1890 - 1894).   
 
Tác phẩm chính:
 
Văn
*Du lịch trong đất nước (Edinburgh: Picturesque Notes, 1878)
*Du lịch với con lừa ở Cévennes (Travels with a Donkey in the Cévennes, 1879)
*Virginibus Puerisque, and Other Papers, 1881
*Đảo châu báu (Treasure Island, 1883)
*Hoàng tử Otto (Prince Otto, 1885)
*Câu chuyện lạ lùng của bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange Case of Dr Jekyll and Mr Hyde, 1886)
*Bị bắt cóc (Kidnapped, 1886)
*Mũi tên đen (The Black Arrow: A Tale of the Two Roses, 1888)
*Sai lầm (The Wrong Box, 1889) cùng với Lloyd Osbourne
*Đắm tàu (The Wrecker, 1892) cùng với Lloyd Osbourne
*Nước ròng (The Ebb-Tide, 1894) cùng với Lloyd Osbourne
 
Thơ
*Vườn thơ của trẻ (A Child's Garden of Verses, 1885)
*Những khóm cây thấp” (Underwoods, 1887)
*Những bài ballad (Ballads, 1891)
*Những khúc hát lữ hành (Songs of Travel and Other Verses, 1896)
 
16 bài thơ
 

Tập “Những khúc hát lữ hành”
 
LÃNG DU
 
Cho tôi sống như ý
Nhiều thứ tôi chẳng cần
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
Giường tôi đặt trong bụi
Bánh mì nhúng nước sông
Mong cuộc sống như vậy
Đi hết con đường trần.
 
Sớm sủa hay muộn màng
Tai ương cũng sẽ tới
Cần mặt đất xung quanh
Cần con đường rộng mở
Chứ không cần giàu có
Không hy vọng, không tình
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
 
Còn khi mùa thu tới
Không chán nản, không buồn
Tiếng chim sẽ im lặng
Ngón tay cũng đóng băng
Tuyết rơi trắng trên đồng
Bên bếp lò sưởi ấm
Mùa thu – không chịu đựng
Sau đó sẽ mùa đông.
 
Sớm sủa hay muộn màng
Tai ương cũng sẽ tới
Cần mặt đất xung quanh
Cần con đường rộng mở
Chứ không cần giàu có
Không hy vọng, không tình
Chỉ bầu trời phía trên
Và con đường phía dưới.
 
The Vagabond
(From Songs of Travel)
 
Give to me the life I love,
Let the lave go by me,
Give the jolly heaven above
And the byway nigh me.
Bed in the bush with stars to see,
Bread I dip in the river -
There's the life for a man like me,
There's the life for ever.
 
Let the blow fall soon or late,
Let what will be o'er me;
Give the face of earth around
And the road before me.
Wealth I seek not, hope nor love,
Nor a friend to know me;
All I seek, the heaven above
And the road below me.
 
Or let autumn fall on me
Where afield I linger,
Silencing the bird on tree,
Biting the blue finger.
White as meal the frosty field -
Warm the fireside haven -
Not to autumn will I yield,
Not to winter even!
 
Let the blow fall soon or late,
Let what will be o'er me;
Give the face of earth around,
And the road before me.
Wealth I ask not, hope nor love,
Nor a friend to know me;
All I ask, the heaven above
And the road below me.
 
 
KHÔNG HIỂU VỚI BẠN CÓ LÀ NHƯ THẾ
 
Không hiểu với bạn có là như thế
Nhưng mà tôi, tôi yêu mến vô cùng
Tất cả những gì ở trong hiện tại
Và những gì trong quá khứ xa xăm.
 
Bởi vì ta không thể nào thay đổi
Một thứ gì đang có hay đã từng
Một ngôi sao đến muôn đời vẫn vậy
Soi sáng trần gian từ giữa trời đêm.
 
Và trong cuộc sống, mỗi ngày mỗi giờ
Có những thứ mới mẻ luôn xuất hiện:
Một con đường, vườn cây, một bông hoa
Những bụi mâm xôi mà ta yêu mến.
 
I Know Not How It is With You
(From Songs of Travel)
 
I know not how it is with you --
I love the first and last,
The whole field of the present view,
The whole flow of the past.
 
One tittle of the things that are,
Nor you should change nor I --
One pebble in our path -- one star
In all our heaven of sky.
 
Our lives, and every day and hour,
One symphony appear:
One road, one garden -- every flower
And every bramble dear.
 
 
VỢ TÔI
 
Tin cậy và chung thủy
Đôi mắt nàng sáng trong
Người bạn đời trung thành
Bậc Nghệ nhân vĩ đại
Đã ban tặng tôi chăng?
 
Dũng cảm và danh dự
Yêu cuộc sống, yêu tình
Với cái chết coi thường
Có phải Thầy vĩ đại
Đã ban tặng cho nàng?
 
Người thầy, người đồng chí
Người vợ, người bạn đường
Toàn tâm và toàn ý
Có phải Cha trên ấy
Đã ban tặng tôi không?
 
My Wife
(From Songs of Travel)
 
Trusty, dusky, vivid, true,
With eyes of gold and bramble-dew,
Steel-true and blade-straight,
The great artificer
Made my mate.
 
Honour, anger, valour, fire;
A love that life could never tire,
Death quench or evil stir,
The mighty master
Gave to her.
 
Teacher, tender, comrade, wife,
A fellow-farer true through life,
Heart-whole and soul-free
The august father
Gave to me.
 
 

Tập “Vườn thơ của trẻ”

KHÔNG PHẢI TÔI
 
Ai đấy thích uống rượu
Ai đấy một panh bia.
Ai đấy thích suy nghĩ
Ai không thích điều này.
 
Mùi nồng của phô mai
Rượu Kentucky cũ
Ai đấy thích điều đó
Nhưng mà không phải tôi.
 
Người này thấy thích Pô
Người kia thích Scott
Stow – ai đấy thích
Ai không thích người này.
 
Ai đấy chỉ thích cười
Còn ai chỉ thích khóc
Ai chế giễu người khác
Nhưng mà không phải tôi.
 
Not I
 
Some like drink
In a pint pot.
Some like to think;
Some not.
 
Strong Dutch Cheese,
Old Kentucky Rye,
Some like these;
Not I.
 
Some like Poe
And other like Scott;
Some like Mrs Stow;
Some not.
 
Some like to laugh,
Some like to cry,
Some like chaff;
Not I.
 
 


TRẺ EM NƯỚC NGOÀI
 
Bạn người Thổ, người Ấn
Người Nhật, người da đen…
Các bạn có muốn sống
Ở đất nước chúng mình?
 
Quê bạn có nhiều cây
Có bao nhiêu loài thú
Bạn ăn trứng đà điểu
Rút chân những con rùa.
 
Quả thực là tuyệt vời
Nhưng không bằng tôi nhé
Bạn nhiều khi khó chịu
Không được đi nước ngoài.
 
Bạn ăn thứ lạ đời
Còn tôi chỉ ăn thịt
Bạn sống ngoài bọt nước
Còn tôi – chỉ nhà thôi.
 
Bạn người Thổ, người Ấn
Người Nhật, người da đen…
Các bạn có muốn sống
Ở đất nước chúng mình?
 
Foreign Children
 
Little Indian, Sioux or Crow,
Little frosty Eskimo,
Little Turk or Japanee,
O! Don’t you wish that you were me?
 
You have seen the scarlet trees
And the lions oversees;
You have eaten ostrich eggs,
And turned the turtles off their legs.
 
Such a life is very fine,
But it’s not so nice as mine:
You must often, as you trod,
Have wearied not to be abroad.
 
You have curious things to eat,
I am fed on proper meat;
You must dwell beyond the foam,
But I am safe and live at home.
 
Little Indian, Sioux or Crow,
Little frosty Eskimo,
Little Turk or Japanee,
O! Don’t you wish that you were me?
 
 
AI CŨNG HÁT
 
Chim mẹ hát về trứng
Về tổ và chim non
Thủy thủ về cánh buồm
Những thứ trên tàu biển.
 
Trẻ hát ở nước Nhật
Và ở Tây Ban Nha
Khi trời đổ cơn mưa
Người ôm phong cầm hát.
 
Singing
 
Of speckled eggs the birdie sings
And nests among the trees;
The sailor sings of ropes and things
In ships upon the seas.
 
The children sing in far Japan,
The children sing in Spain;
The organ with the organ man
Is singing in the rain.
 
 
GỬI MẸ TÔI
 
Mẹ thân yêu, mẹ đọc thơ của con
Vì tình yêu đã từng trong quá khứ
Mẹ có thể nghe lại thêm lần nữa
Những bước chân nhỏ nhẹ bước trên sàn.
 
To my Mother
 
You too, my mother read my rhymes
For love of unforgotten times,
And you may chance to hear once more
The little feet along the floor.
 
 
NHIỆM VỤ CỦA TRẺ EM
 
Con trẻ phải luôn nói những gì đúng
Phải biết cách cư xử tại bàn ăn
Và trả lời câu hỏi của người lớn
Mỗi khi người lớn nói chuyện với con.
 
Whole Duty of Children
 
A CHILD should always say what’s true  
And speak when he is spoken to,    
And behave mannerly at table;        
At least as far as he is able.
 
 
CẬU BÉ NGOAN
 
Thức dậy sớm, tôi vui suốt cả ngày
Không nói lời xấu, gặp ai cũng cười.
 
Và bây giờ khi mặt trời đã lặn
Tôi thấy vui vì biết rằng mình đúng.
 
Giường của tôi mát mẻ với vải lanh
Tôi đi ngủ, và cầu nguyện không quên.
 
Tôi biết rằng đến lúc mặt trời mọc
Không có ác mộng làm tôi thức giấc.
 
Tôi ngủ say cho đến buổi bình minh
Rồi thức giấc nghe chim hót trên cành.
 
A Good Boy
 
I woke before the morning, I was happy all the day,
I never said an ugly word, but smiled and stuck to play.
 
And now at last the sun is going down behind the wood,
And I am very happy, for I know that I've been good.
 
My bed is waiting cool and fresh, with linen smooth and fair,
And I must be off to sleepsin-by, and not forget my prayer.
 
I know that, till to-morrow I shall see the sun arise,
No ugly dream shall fright my mind, no ugly sight my eyes.
 
But slumber hold me tightly till I waken in the dawn,
And hear the thrushes singing in the lilacs round the lawn.
 
 
NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC
 
Một mai này, khi mà tôi đã lớn
Thành một chàng trai cao to khỏe mạnh
Sẽ nói với các chị các anh rằng
Đừng động vào kẻo đồ chơi tôi hỏng.
 
Looking Forward
 
WHEN I am grown to man’s estate 
I shall be very proud and great,       
And tell the other girls and boys      
Not to meddle with my toys.
 
 
HỆ THỐNG
 
Mỗi buổi tối cầu nguyện trước khi ngủ
Và mỗi ngày gọn ghẽ trước bàn ăn
Nếu ngày nào cũng ngoan như vậy cả
Sau khi ăn tôi được thưởng quả cam.
 
Có cậu bé không gọn gàng tươm tất
Đồ chơi, đồ ăn để lộn tùng phèo
Bạn không ngoan, nhưng mà tôi tin chắc –
Hay là cha của bạn ấy rất nghèo.
 
System
 
Every night my prayers I say,
And get my dinner every day;
And every day that I've been good,
I get an orange after food.
 
The child that is not clean and neat,
With lots of toys and things to eat,
He is a naughty child, I'm sure—
Or else his dear papa is poor.
 
 
MƯA
 
Mưa đổ xuống khắp nơi,
Trên cánh đồng, trên cây,
Trên những con tàu biển
Và trên chiếc ô này.
 
Rain
 
The rain is raining all around,
It falls on field and tree,
It rains on the umbrellas here,
And on the ships at sea.
 
 
Ý NGHĨ VUI
 
Có biết bao nhiêu thứ
Tuyệt vời ở trần gian
Tôi tin rằng ta sẽ
Hạnh phúc như ông hoàng.
 
Happy Thought
 
The world is so full of a number of things,
I'm sure we should all be as happy as kings.
 
 
THỜI GIAN THỨC DẬY
 
Có con chim mỏ vàng
Đậu lên ô cửa sổ
Chim kêu: “Ngủ nhiều thế
Bạn có xấu hổ không!”
 
Time to Rise
 
A birdie with a yellow bill
Hopped upon my window sill,
Cocked his shining eye and said:
"Ain't you 'shamed, you sleepy-head!"
 
 

Tập “Những khóm cây thấp”
 
KHÚC TƯỞNG NIỆM
 
Dưới bầu trời rộng mở, dưới sao trời
Hãy đào huyệt, chôn tôi nằm xuống đất
Tôi đã sống và tôi vui lòng chết
Lời di chúc tôi để lại thế này.
 
Xin bạn hãy ghi trên mộ của tôi:
“Anh nằm ở nơi mà anh mong muốn
Như người thủy thủ trở về với biển
Như người thợ săn về với núi đồi”.
 
Requiem
(From Underwoods)
 
Under the wide and starry sky
Dig the grave and let me lie.
Glad did I live and gladly die,
And I laid me down with a will.
 
This be the verse you grave for me;
Here he lies where he longed to be,
Home is the sailor, home from sea,
And the hunter home from the hill.
 
 
Tập “Thơ mới”
 
VÀO CỬA TỰ DO
 
Hỡi vị khách quí! Vào cửa tự do
Tất cả của bạn, những gì bạn thấy
Ta đều là khách một hồi của Chúa
Không biết khi nào sẽ phải ra đi.
 
Hail, Guest, And Enter Freely!
(From New poems and variant readings)
 
HAIL, guest, and enter freely! All you see
Is, for your momentary visit, yours; and we
Who welcome you are but the guests of God,
And know not our departure.


Thơ Joseph Addison


 Joseph Addison (1 tháng 5 năm 1672 – 17 tháng 6 năm 1719) – là một nhà viết tiểu luận, nhà thơ, nhà viết kịch và chính trị gia người Anh. Phong cách văn xuôi đơn giản của ông đánh dấu sự kết thúc của phong cách và hình ảnh cổ điển thông thường của thế kỷ 17.
 
Tiểu sử
Addison sinh ở Milston, Wiltshire, Anh nhưng ngay sau khi sinh ra, cha của ông được bổ nhiệm làm Trưởng tu viện của nhà thờ ở Lichfield và gia đình chuyển đến gần nhà thờ. Ông được đào tạo tại trường Charterhouse, London, nơi lần đầu tiên ông gặp Richard Steele và tại trường Cao đẳng Hoàng gia Oxford. Ông rất giỏi về kinh điển và trở thành một Quí ngài Danh dự của Cao đẳng Magdalen. Năm 1693, ông gửi một số bài thơ cho John Dryden. Tác phẩm lớn đầu tiên của ông, một cuốn sách về cuộc đời của các nhà thơ Anh được xuất bản năm 1694. Bản dịch thơ Virgil của ông được xuất bản cùng năm.
 
Sự khác biệt của Addison so với các nhà văn khác vào đầu thế kỷ 18 là ông thuộc về giới thượng lưu của xã hội Anh không chỉ bởi tài năng, mà còn bởi sự xuất thân và giáo dục. Cha của ông, Lancelot Addison, là tu viện trưởng của các thánh đường ở Lichfield và Coventry. Ở trường, Addison trở thành bạn thân với người bạn cùng lứa, Richard Steele, người trở thành đồng tác giả của ông trong phần lớn cuộc đời.
 
Ở tuổi 27, Addison đã đi rất nhiều nơi ở Châu Âu, nơi ông ở lại 5 năm và sáng tác rồi gửi về in ở Anh trong một số tạp chí. Các bài tiểu luận hàng tuần về Milton và “Thiên đường đã mất” – một tác phẩm đặc biệt thành công nhưng đang bị quên lãng. Có đến 3.000 bản của tạp chí “Người quan sát” (The Spectator) được phát hành khắp Luân Đôn hàng ngày, vào thời điểm đó là một kỷ lục. Sau khi tạp chí đóng cửa, các số phát hành của nó đã được in lại trong bảy cuốn sách.
 
Joseph Addison qua đời ở London khi 47 tuổi. Ông được chôn cất tại Tu viện Westminster gần lăng mộ của Lord Halifax. Những lời khen ngợi của Tiến sĩ Johnson đã nâng ông lên thành một trong những người có uy tín, có ảnh hưởng nhất và theo Bách khoa toàn thư Anh, ông là một bậc thầy về văn xuôi tiếng Anh.
 
3 bài thơ
 

BÀI THƠ ODE
 
Bầu trời ở trên đầu ta trải rộng
Khắp nơi đều thăm thẳm một màu xanh
Hãy đưa mắt nhìn nam bắc tây đông
Có giọng nói dường như đang lên tiếng:
Mặt trời không mệt mỏi, theo ngày tháng
Đang chỉ ra sức mạnh Đấng Toàn Năng
Sự diệu kỳ trong cuộc đời rộng lớn
Dường như nhờ Bàn tay của Ngài nâng.
 
Cứ mỗi lần, khi bóng tối bao trùm
Trăng kể về sự ra đời của mình
Về một điều rằng kể từ ngày ấy
Thảy muôn loài đều do Ngài sáng tạo
Câu chuyện này không có sự dối gian
Và tất cả mọi hành tinh xung quanh
Đều khẳng định như một điều chân lý
Và mang tin này đi khắp thế gian.
 
Chẳng lẽ chúng trong im lặng trang nghiêm
Chuyển động vòng quanh trái đất tối tăm?
Chẳng lẽ không có lời hay tiếng động
Giữa những hành tinh có thể đi tìm?
Nhưng mà không! Tất cả đều vui mừng
Nghe một giọng nói thốt ra sang sảng
Chúng hát lên khi chúng đang tỏa sáng:
“Ta được tạo do bàn tay của Thánh thần!”
 
Ode
 
The spacious firmament on high,
With all the blue ethereal sky,
And spangled heav'ns, a shining frame,
Their great original proclaim:
Th' unwearied Sun, from day to day,
Does his Creator's power display,
And publishes to every land
The work of an Almighty Hand.
 
Soon as the evening shades prevail,
The Moon takes up the wondrous tale,
And nightly to the list'ning Earth
Repeats the story of her birth:
Whilst all the stars that round her burn,
And all the planets, in their turn,
Confirm the tidings as they roll,
And spread the truth from pole to pole.
 
What though, in solemn silence, all
Move round the dark terrestrial ball?
What though nor real voice nor sound
Amid their radiant orbs be found?
In Reason's ear they all rejoice,
And utter forth a glorious voice,
For ever singing, as they shine,
'The Hand that made us is Divine.'
 
 
GỬI MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ XẤU
(Mô phỏng thơ Martial)
 
Trong bóng tối tôi nắm bàn tay em dịu dàng
Và nghe tiếng nàng tiên cá trong lời của em
Ngọn lửa cháy, mũi tên, nỗi khổ tôi chịu đựng!
Nhưng em thắp nến lên thì tôi được chữa lành.
 
To an Ill-Favored Lady
(Imitated from Martial)
 
While in the dark on thy soft hand I hung,
And heard the tempting syren in thy tongue,
What flames, what darts, what anguish I endured!
But when the candle entered I was cured.
_______________
* Martial (Marcus Valerius Martialis, 41 – 102) – nhà thơ trào phúng La Mã.
 
 


GỬI THẰNG ĐỂU
(Mô phỏng thơ Martial)
 
Bộ râu, mái tóc có màu khác nhau
Một chân ngắn và đôi mắt nhìn xéo
Bạn có dấu hiệu một tay lừa đảo
Phải thành thật – bạn là kẻ dối lừa.
 
To Rouge
(Imitated from Martial)
 
Thy beard and head are of a different dye :
Short of one foot, distorted in an eye :
With all these tokens of a knave complete,
Should’st thou be honest, thou ’rt a dev’lish cheat.
 

Thơ Mary, Nữ hoàng Scotland

 

Mary, Nữ hoàng Scotland (8 tháng 12 năm 1542 – 8 tháng 2 năm 1587), còn được gọi là Mary Stuart hoặc Mary I của Scotland, trị vì Scotland từ ngày 14 tháng 12 năm 1542 đến ngày 24 tháng 7 năm 1567. Bà cũng là Nữ hoàng Pháp các năm 1559 -1560 (với tư cách là phu nhân của Vua Francis II). Số phận bi thảm của bà, với đầy những khúc quanh và sự kiện “văn học” đầy kịch tính, đã thu hút các nhà văn, nhà thơ của thời đại lãng mạn và các thời đại sau đó.
 
Tiểu sử
Mary sinh ngày 8 tháng 12 năm 1542 tại Cung điện Linlithgow, Scotland. Con gái của James V của Scotland và Mary của Guise. Năm 1548, Mary Stuart được gửi đến Pháp, nơi bà được nuôi dưỡng tại Hoàng cung Pháp. Năm 1558, bà kết hôn với Dauphin của nước Pháp, Francis (từ năm 1559, Vua Francis II).
 
Sau khi Vua Francis qua đời vào tháng 12 năm 1560, bà trở về Scotland (1561), nơi ảnh hưởng của những người theo đạo Calvin rất mạnh. Lúc đầu, Mary Stuart (là người theo đạo Công giáo) chung sống hòa bình với những người theo đạo Tin lành. Tuy nhiên, sau đó bà bắt đầu tích cực liên lạc với Rome và các thế lực Công giáo, cũng như với những người nổi dậy ở Ireland. Điều này khiến các lãnh chúa Scotland không hài lòng.
 
Bốn năm sau, bà kết hôn với người anh cùng cha khác mẹ của mình, Henry Stuart, Lord Darnley, và vào tháng 6 năm 1566 họ có một con trai, James. Vào ngày 10 tháng 2 năm 1567, một nhóm quý tộc do Bá tước thứ 4 của Bothwell, James Hepburn, đã bóp cổ Darnley và cho nổ tung ngôi nhà của ông.
 
Bothwell kết hôn với Mary Stuart vào ngày 15 tháng 5 năm 1567. Ông không được lòng dân chúng và cuộc hôn nhân gặp phải sự phản đối của giới quý tộc. Mùa hè năm 1567, những người theo đạo Calvin đã tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang.
 
Mary Stuart buộc phải thoái vị vì đứa con trai một tuổi của bà (sau này là Vua Scotland James VI, từ năm 1603 là Vua Anh James I). Sau một nỗ lực không thành công để giành lại ngai vàng, bà chạy trốn xuống phía nam để tìm kiếm sự bảo vệ của người em họ đầu tiên của mình, Nữ hoàng Elizabeth I của Anh.
 
Mary đã từng tuyên bố ngai vàng của Elizabeth là của riêng mình và được nhiều người Công giáo Anh coi là chủ quyền hợp pháp của nước Anh. Nhận thức được Mary là một mối đe dọa, Elizabeth đã giam Mary trong nhiều lâu đài và trang viên ở nước Anh. Sau 18 năm rưỡi bị giam giữ, Mary bị kết tội âm mưu ám sát Elizabeth vào năm 1586 và bị chặt đầu vào năm sau tại lâu đài Fotheringhay.
 
Nữ hoàng được chôn cất tại Nhà thờ chính tòa Peterborough. Năm 1612, theo lệnh của con trai bà là James, người trở thành Vua nước Anh sau cái chết của Elizabeth I, hài cốt của Mary Stuart được chuyển đến Tu viện Westminster, được chôn cất ngay gần mộ đối thủ vĩnh cửu của bà, Nữ hoàng Elizabeth I.
 
Có lẽ không một Nữ vương nào lại được chú ý trong nghệ thuật và văn học như Mary Stuart. Một số phận vinh quang nhưng đầy những bi kịch, đầy những âm mưu và tình yêu ấy không thể không làm cho các nhà văn, nhà thơ khắp thế giới quan tâm. Câu chuyện về cuộc đời của Nữ hoàng đã được rất nhiều các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà làm phim nổi tiếng xưa nay khai thác. Chúng tôi cũng chỉ mới dịch được một vài bài thơ của bà ra tiếng Việt.
 
2 bài thơ
 


GỬI NGƯỜI TÌNH BOTHWELL*
 
Vì anh tôi quên danh dự của mình –
Thứ hạnh phúc trần gian tôi có được.
Tôi trao anh cả lương tâm, quyền lực
Vì anh mà tôi bỏ lại người thân
Nơi quê mình bị người ta khinh miệt.
 
Cũng vì anh bạn bè tôi quên hết
Đi kết thân với kẻ địch của mình
Tôi hy sinh tâm hồn và ý thức
Và những gì kiêu hãnh ở trần gian
Vì yêu anh mà tôi vui lòng chết.
 
Tôi dâng hết ngai vàng và vương miện
Có thể cuối cùng anh sẽ hiểu ra
Đối với tôi quan trọng một điều là
Sống vì anh và phục tùng ngoan ngoãn.
 
Chỉ vì anh tôi đợi chờ may mắn
Và giữ gìn sức khỏe chỉ vì anh
Dành cho anh một tình yêu quên mình
Và luôn hướng tới những điều cao thượng.
__________________
*James Hepburn, Bá tước thứ 4 của Bothwell.
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur
 
Pour luy depuis j'ay mesprise I'honneur,
Ce qui nous peust seui pourvoir de bonheur.
Pour luy j'ay hasarde grandeur &; conscience,
Pour luy tous mes parens j'ay quitte &; amis,
Et tous autres respectz sont a part mis.
    
Pour luy tous mes amis j'estime moins que rien,
Et de mes ennemis je veux esperer bien.
J'ay hasafde pour luy nom &; conscience
Je veux pour luy au monde renoncer,
Je veux mourir pour Ie faire avancer.
 
Pour luy je veux recherc'ner la grandeur,
Et feray tant que de vray congnoistra
Que je n'ay bien, heur, ne contentement,
Qu'a I'obeir &; servir loyaument.
    
Pour luy j'attends toute bonne fortune,
Pour luy je veux garder sante &; vie,
Pour luy tout vertu de suivre j'ay envie,
Et sans changer me trouvera tout'une.
 
 

VIẾT Ở LÂU ĐÀI FOTHERINGHAY*
 
Ta là gì? Ta sống để làm chi?
Cái xác không hồn, vật vờ chiếc bóng
Là đối tượng của bao điều bất hạnh
Còn sống đây nhưng cái chết đang chờ.
 
Kẻ thù kia, xin gác lại hận thù
Ta bây giờ chẳng còn mơ danh vọng
Vì ta đã chịu quá nhiều đau đớn
Nỗi đau này ta nhận hết về ta.
 
Và bạn bè, những người đã yêu vì
Hãy nhớ rằng ta không còn sức nữa
Làm việc gì cho người nọ, người kia
 
Giờ chỉ mong chấm dứt khổ đau này
Để sớm từ giã cuộc đời bất hạnh
Với niềm vui nơi cực lạc ta về.
____________
*Mary viết bài thơ này trong thời gian bà bị giam giữ ở lâu đài Fotheringhay và bị chặt đầu ngay sau đó.
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
 
Que suis-je, hélas ! et de quoi sert ma vie?
Je ne suis fors qu'un corps privé de coeur,
Une ombre vaine, un objet de malheur,
Qui n'a plus rien que de mourir envie.
 
Plus ne portez, ô ennemis, d'envie
A qui n'a plus l'esprit à la grandeur,
Ja consommé d'excessive douleur.
Votre ire en bref se verra assouvie.
 
Et vous, amis, qui m'avez tenue chère,
Souvenez-vous que sans heur, sans santé,
Je ne saurais aucun bon oeuvre faire.
 
Souhaitez donc fin de calamité
Et que ci-bas, étant assez punie,
J'aye ma part en la joie infinie.
 

Thơ Elizabeth I

 

Elizabeth I của Anh (7 tháng 9 năm 1533 – 24 tháng 3 năm 1603) – Chính khách Anh. Nữ hoàng Anh và Ireland từ ngày 17 tháng 11 năm 1558 đến khi qua đời, ngày 24 tháng 3 năm 1603. Người cuối cùng của triều đại Tudor. Con gái duy nhất của Vua Henry VIII của Tudor từ cuộc hôn nhân với Anna Boleyn. Thời gian trị vì của bà được gọi là “Thời đại hoàng kim của nước Anh” liên quan đến thời cực thịnh của văn hóa và sự gia tăng mạnh mẽ tầm ảnh hưởng của nước Anh trên trường quốc tế.
 
Tiểu sử:
Elizabeth Tudor sinh ngày 7 tháng 9 năm 1533 tại thành phố Greenwich, Anh. Cô gái được đặt tên để vinh danh mẹ của Henry VIII. Ngoài ra, Elizabeth còn được trao danh hiệu Công nương xứ Wales, người thừa kế ngai vàng, lấy từ người chị cùng cha khác mẹ là Mary.
 
Đầu tháng 11 năm 1558, Nữ hoàng Mary cảm thấy rằng những ngày của mình đã sắp kết thúc. Hội đồng muốn bà chính thức bổ nhiệm em gái là người thừa kế nhưng nữ hoàng đã chống lại: biết rằng Elizabeth sẽ trở về Anh cùng với đạo Tin lành mà bà ghét. Chỉ dưới áp lực của Philip, Mary mới nhượng bộ trước yêu cầu của các cố vấn, nhận ra rằng nếu không thì đất nước có thể rơi vào hỗn loạn của cuộc nội chiến.
 
Nữ hoàng Mary qua đời vào ngày 17 tháng 11 năm 1558 và cùng ngày, ở tuổi hai mươi lăm, Elizabeth trở thành Nữ hoàng mới của Anh và Ireland. Ba ngày sau cái chết của Mary, Hội đồng đầu tiên của Nữ hoàng đã tập hợp. Elizabeth thưởng cho tất cả những người đã giúp đỡ mình trong thời kỳ bị thất sủng.
 
Elizabeth chọn ngày đăng quang vào ngày 15 tháng 1 năm 1559, tức là ngay sau ngày lễ Giáng sinh: bà muốn cho nước Anh thêm một vài ngày lễ. Dân chúng ngưỡng mộ bà vì bà đã trả lại Đức tin Tin lành cho đất nước. Tuy nhiên, Elizabeth khôn ngoan cho phép người Công giáo tham dự Thánh lễ. Với sự giúp đỡ của các cố vấn, đặc biệt là William Cecil, bà đã theo đuổi một chính sách kinh tế dẫn đến sự thịnh vượng của công nghiệp và thương mại.
 
Trong triều đại của Elizabeth I, nước Anh đã trở thành một cường quốc hải quân. Nữ hoàng không chỉ khuyến khích việc xây dựng hạm đội mà còn cả những thủy thủ và cướp biển, họ đã cướp bóc những con tàu của người Tây Ban Nha, kẻ thù của nước Anh. Chiến thắng của hạm đội Anh trước hạm đội Tây Ban Nha đã phá vỡ sức mạnh hải quân của Tây Ban Nha và đánh dấu sự chuyển giao quyền lãnh đạo trên biển vào tay nước Anh.
 
Trong đời sống chính trị của đất nước, chủ nghĩa tuyệt đối được tiếp tục tăng cường. Trong đời sống riêng, Elizabeth không bao giờ kết hôn, vẫn còn là một “Nữ hoàng Trinh nữ” của Hoàng cung, ít nhất là về mặt chính thức, mặc dù nhiều hoàng tử và quân vương đã cầu xin tình cảm như trong thơ (chưa dịch được hết) của bà cũng thể hiện điều này.
 
Vào ngày 31 tháng 12 năm 1600, Elizabeth đã ký điều lệ thành lập công ty cổ phần “Công ty Đông Ấn”. Tài liệu này đã trao cho các thương nhân London quyền độc quyền thương mại trên bán đảo Ấn Độ và các đảo quốc Đông Nam Á trong thời gian 15 năm. Với sự giúp đỡ của Công ty Đông Ấn, Vương quốc Anh đã thuộc địa hóa Ấn Độ và một số nước Phương Đông.
 
Trong những năm cuối đời, do cái chết của những người bạn thân, sức khỏe của Nữ hoàng đã bị giảm đi rất nhiều. Tháng 2 năm 1603, bà rơi vào tình trạng trầm cảm, u sầu.
 
Nữ hoàng Elizabeth I của Anh qua đời vào ngày 24 tháng 3 năm 1603 tại Cung điện Richmond. An táng tại Tu viện Westminster. Với cái chết của bà, triều đại Tudor kết thúc và triều đại Stuart bắt đầu, kể từ khi James I, con trai của Mary Stuart, trở thành người kế vị.
 
4 bài thơ
 

KHI TÔI CÒN TRẺ ĐẸP
 
Khi tôi còn trẻ đẹp
Nhiều người tìm đến tôi
Nhưng mà tôi khinh miệt
Và tôi đã trả lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Bao kẻ rơi nước mắt
Bao người khổ vì tôi
Mặc người ta khóc lóc
Còn tôi vẫn trả lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Thần Tình yêu có mặt
Rằng em thật đáng yêu
Chỉ vì em nhút nhát
Ta lấy đi những lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
Và ngay trong lúc này
Lửa yêu bừng trong ngực
Khi đó tôi thấy tiếc
Vì đã nói những lời:
“Đừng mong gì ở tôi
Hãy đi tìm người khác”.
 
When I Was Fair and Young
 
When I was fair and young, then favor graced me.
Of many was I sought their mistress for to be.
But I did scorn them all and answered them therefore:
Go, go, go, seek some other where; importune me no more.
 
How many weeping eyes I made to pine in woe,
How many sighing hearts I have not skill to show,
But I the prouder grew and still this spake therefore:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
Then spake fair Venus’ son, that proud victorious boy,
Saying: You dainty dame, for that you be so coy,
I will so pluck your plumes as you shall say no more:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
As soon as he had said, such change grew in my breast
That neither night nor day I could take any rest.
Wherefore I did repent that I had said before:
Go, go, go, seek some other where, importune me no more.
 
 
BẤT CHẤP VẬN MAY
 
Đừng bao giờ trông chờ ở vận may.
Lòng dũng cảm buộc nó phải vâng lời.
 
In Defiance of Fortune
 
Never think you fortune can bear the sway
Where virtue’s force can cause her to obey.
 
 

VIẾT BẰNG KIM CƯƠNG
TRÊN CỬA SỔ Ở WOODSTOCK
 
Nghi ngờ nhiều vô cùng
Không gì chứng minh được
Elizabeth tù nhân.
___________
*Woodstock là một điền trang ở Oxfordshire, nơi Công chúa Elizabeth bị quản thúc tại gia vào năm 1554-55 sau khi bị giam giữ hai tháng trong Tháp (Tower of London).
 
Written with a Diamond on her Window at Woodstock
 
Much suspected by me,
Nothing proved can be,
Quoth Elizabeth prisoner.
 
 
VIẾT TRONG SÁCH THÁNH VỊNH
 
Những người mờ mắt, những người vẹo chân
Đừng vội gọi họ là người quái dị
Nhưng cần gọi bằng cái tên như thế
Với những ai luôn nghi kỵ bên trong.
 
Written in her French Psalter
 
No crooked leg, no bleared eye,
No part deformed out of kind,
Nor yet so ugly half can be
As is the inward suspicious mind.
 

Thơ Henry Wotton

 

Henry Wotton (30 tháng 3 năm 1568 – tháng 12 năm 1639) – nhà văn, nhà thơ, nhà ngoại giao và chính trị gia người Anh, thành viên của Hạ viện năm 1614-1625. Câu nói nổi tiếng mà ông đã nói khi tới Augsburg năm 1604 để nhận nhiệm vụ, thường được trích dẫn: “Đại sứ là một người trung thực được gửi ra nước ngoài để nói dối vì lợi ích của đất nước mình”.
 
Tiểu sử
Henry sinh tại Bocton, Kent. Ông được học tại Winchester College và New College, Oxford. Hai năm sau chuyển đến Cao đẳng Hoàng gia (Queen's College), nơi ông tốt nghiệp vào năm 1588. Tại Oxford, ông là bạn của Alberico Gentili, sau này là giáo sư luật dân sự, và nhà thơ tương lai John Donne. Khi theo học tại Cao đẳng Hoàng gia, ông đã viết vở kịch Tancredo, bản thảo bị thất lạc, nhưng mối quan tâm chính của ông là khoa học. Trong kỳ thi cuối cùng, ông bảo vệ luận văn “Con mắt” và cho đến cuối đời ông vẫn tiếp tục hứng thú với các thí nghiệm y học.
 
Cha của ông, Thomas Wotton, mất năm 1587, khiến Henry chỉ còn một trăm bảng mỗi năm. Mặc dù vậy, vào năm 1589, Wotton ra nước ngoài để chuẩn bị cho sự nghiệp ngoại giao, và hành trình của ông kéo dài sáu năm.
 
Ông trở lại Anh vào năm 1594, và trong năm tiếp theo được nhận vào công ty luật  Middle Temple. Trong khi ở nước ngoài, thỉnh thoảng ông đã cung cấp cho Robert Devereux, Bá tước thứ 2 của Essex. Nhiệm vụ của ông là cung cấp thông tin tình báo về các vấn đề ở Transylvania, Ba Lan, Ý và Đức. Ông là người may mắn hơn những người khác cùng làm công việc này bởi thời đó rất nhiều người đã bị bắt.
 
Wotton là một trong những “nhà nhân văn Phục hung” cuối cùng trong văn hóa Anh. Một chuyên gia đa năng về ngôn ngữ, triết học, kiến trúc, ông đã mang các tác phẩm của Johannes Kepler và Tycho Brahe từ châu Âu về cho Francis Bacon, giữ những lá thư của John Donne cho hậu thế, là một nhân chứng và người tham gia ngành ngoại giao của Anh vốn phức tạp trong giai đoạn chuyển tiếp của lịch sử châu Âu.
 
3 bài thơ
 


ĐẶC TÍNH CỦA ĐỜI SỐNG HẠNH PHÚC
 
Phước cho ai sinh ra và được học
Không bao giờ làm theo ý người ta
Vũ khí chính là nghĩ suy trung thực
Và sự thật là kỹ năng tối đa!
 
Ai người luôn làm chủ những đam mê
Linh hồn ai sẵn sàng cho cái chết
Đối xử với đời bằng cách chăm sóc
Danh tiếng cộng đồng, hơi thở riêng tư.
 
Ai không nuôi hiềm khích hay ghét ghen
Trước sự thành công của bao người khác
Sống theo đạo đức chứ không phải luật
Những lời khen ngợi dễ làm tổn thương.
 
Ai không hề nghe theo những tin đồn
Lương tâm của mình không đem bán rẻ
Với những kẻ xu nịnh không nhượng bộ
Xét xử người ta không quá lạnh lùng.
Ai mỗi sáng thức dậy lo cầu nguyện
Chỉ hồng ân, không xin xỏ thứ gì
Còn mỗi chiều lại ưa thích trò chuyện
Với cuốn sách Kinh hoặc với bạn bè.
 
– Con người này tự do, không như ai
Hy vọng lên voi, kinh hoàng xuống chó
Là chủ của mình, dù không đất đai
Không có gì nhưng mà có tất cả.
 
The Character of a Happy Life
 
How happy is he born and taught
That serveth not another's will;
Whose armour is his honest thought,
And simple truth his utmost skill!
 
Whose passions not his masters are;
Whose soul is still prepared for death,
Untied unto the world by care
Of public fame or private breath;
 
Who envies none that chance doth raise,
Nor vice; who never understood
How deepest wounds are given by praise;
Nor rules of state, but rules of good;
 
Who hath his life from rumours freed;
Whose conscience is his strong retreat;
Whose state can neither flatterers feed,
Nor ruin make oppressors great;
 
Who God doth late and early pray
More of His grace than gifts to lend;
And entertains the harmless day
With a religious book or friend;
 
—This man is freed from servile bands
Of hope to rise or fear to fall:
Lord of himself, though not of lands,
And having nothing, yet hath all.
 
 

ELIZABETH CỦA BOHEMIA
 
Những vì sao lấp lánh giữa trời đêm
Vẻ đẹp này chưa làm mắt thỏa mãn
Và ánh sáng chẳng qua nhờ số lượng
Giữa trời kia, sao – những kẻ bình thường
Biết làm gì khi mặt trăng xuất hiện?
 
Những loài chim – ca sĩ của núi rừng
Chỉ biết hát những bài ca đơn giản
Trong muôn vàn giọng hát giữa thiên nhiên
Ai còn nhận ra giọng hát bình thường
Hay để ý, khi họa mi lên tiếng?
 
Những bông hoa tím đầu tiên trên đồng
Hoa kiêu hãnh với màu áo của mình
Vẻ tuyệt vời như những nàng trinh nữ
Dường như hoa muốn chiếm trọn mùa xuân
Nhưng làm gì, khi hoa hồng nở rộ?
 
Nếu bạn gặp tình nhân tôi một lần
Vẻ đẹp trí tuệ làm bạn ngạc nhiên
Xứng với ngai vàng, không cần chọn lựa
Bạn sẽ nói: sinh ra mà quyến rũ
Để làm lu mờ hoặc để tôn vinh.
 
Elizabeth of Bohemia
 
You meaner beauties of the night,
That poorly satisfy our eyes
More by your number than your light,
You common people of the skies;
What are you when the moon shall rise?
 
You curious chanters of the wood,
That warble forth Dame Nature’s lays,
Thinking your passions understood
By your weak accents; what’s your praise
When Philomel her voice shall raise?
 
You violets that first appear,
By your pure purple mantles known
Like the proud virgins of the year,
As if the spring were all your own;
What are you when the rose is blown?
 
So, when my mistress shall be seen
In form and beauty of her mind,
By virtue first, then choice, a Queen,
Tell me, if she were not design’d
Th’ eclipse and glory of her kind.
 
 
VĂN BIA CHO HAI NGƯỜI
 
Anh ấy chết trước tiên
Còn cô gắng sống tiếp
Nhưng sống không có anh
Cô không thích và chết.
 
Upon The Death Of Sir Albert Morton's Wife
 
He first deceased; she for a little tried
To live without him, liked it not, and died.
 
 


Trích một số câu nói của Henry Wotton từ tác phẩm
“Chân dung của Dorian Gray” của Oscar Wilde 
 
VỀ CÁI ĐẸP
 
Sắc đẹp là một dạng thiên tài, thậm chí còn cao hơn thiên tài, bởi vì nó không đòi hỏi sự giải thích. Sắc đẹp là một trong những hiện tượng vĩ đại của thế giới chúng ta, như ánh sáng mặt trời, như mùa xuân, như sự phản chiếu trong vùng nước tối của lớp vỏ bạc mà chúng ta gọi là mặt trăng. Sắc đẹp là không thể phủ nhận. Nó có quyền tối cao để cai trị và làm cho những người sở hữu nó trở thành hoàng tử… Đối với tôi, sắc đẹp là một kỳ quan trong những kỳ quan. Chỉ có những người nông cạn mới không đánh giá bằng vẻ ngoài. Bí ẩn thực sự của thế giới là hữu hình chứ không phải vô hình...

=And beauty is a form of genius -- is higher, indeed, than genius, as it needs no explanation. It is of the great facts of the world, like sunlight, or spring-time, or the reflection in dark waters of that silver shell we call the moon. It cannot be questioned. It has its divine right of sovereignty. It makes princes of those who have it.... To me, beauty is the wonder of wonders. It is only shallow people who do not judge by appearances. The true mystery of the world is the visible, not the invisible...
 
 
VỀ SỰ CHUNG THỦY
 
Trong tình yêu, lòng chung thủy hoàn toàn là vấn đề sinh lý, nó không phụ thuộc chút nào vào ý chí của chúng ta. Những người trẻ tuổi muốn chung thủy – và họ không làm thế, những người già muốn thay đổi, nhưng họ thì còn gì! Thế thôi.

=Why, even in love it is purely a question for physiology. It has nothing to do with our own will. Young men want to be faithful, and are not; old men want to be faithless, and cannot: that is all one can say.
 
VỀ HÔN NHÂN
 
Đàn ông cưới vợ vì mệt mỏi, phụ nữ lấy chồng vì tò mò. Và cả hai đều thất vọng.

=Men marry because they are tired; women, because they are curious: both are disappointed.
 
 
VỀ SỰ ĐAU KHỔ
 
Phụ nữ chịu đau khổ dễ dàng hơn đàn ông. Họ sống bằng cảm xúc của mình, và họ chỉ nghĩ về cảm xúc của họ. Họ đi yêu những người yêu chỉ là để có ai đó làm cảnh.

=Women were better suited to bear sorrow than men. They lived on their emotions. They only thought of their emotions. When they took lovers, it was merely to have some one with whom they could have scenes.
 
 
VỀ SỰ NGƯỠNG MỘ
 
Thà ngưỡng mộ người khác còn hơn được ngưỡng mộ. Được ngưỡng mộ là một sự phiền toái. Phụ nữ đối xử với đàn ông chúng ta giống như cách loài người đối xử với các vị thần của họ. Phụ nữ tôn thờ chúng ta và họ làm phiền, liên tục đòi hỏi một cái gì đó.
 
Phụ nữ cho đàn ông những điều quý giá nhất trong cuộc sống.
 
Nhưng họ luôn đòi hỏi nó trở lại. Như một người Pháp dí dỏm đã nói, phụ nữ truyền cảm hứng cho chúng ta làm những kiệt tác nhưng họ luôn ngăn cản chúng ta thực hiện chúng.
 
=But adoring someone is certainly better than being adored. Being adored is a nuisance. You'll discover, Dorian, that women treat us just as humanity treats its gods. They worship us and keep bothering us to do something for them.
 
You must admit that women give men the very gold of their lives.
 
But they invariably want it back in such small change. Women, as a witty Frenchman put it, inspire us with the desire to do masterpieces and always prevent us from carrying them out.
 
 
VỀ NGƯỜI CÓ VĂN HÓA
 
Người có văn hóa không bao giờ hối tiếc rằng anh ta đam mê những thú vui khoái lạc, còn người vô văn hóa thì không biết được khoái lạc là gì.

=A cultured person never repents of indulging in pleasures, and an uncivilized person does not know what pleasure is.
 

Thơ Edward de Vere

 

Edward de Vere, Bá tước thứ 17 của Oxford (12 tháng 4 năm 1550 – 24 tháng 6 năm 1604) là chính khách người Anh, phục vụ trong triều đình của Nữ hoàng Elizabeth I.
 
Ông là đại diện của một trong những gia đình quý tộc lâu đời nhất trong lịch sử nước Anh, người đứng đầu từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18 giữ danh hiệu Bá tước Oxford. Eduard de Ver mồ côi cha từ năm 12 tuổi và được thừa hưởng danh hiệu Bá tước Oxford từ đó. Ông nhận bằng luật tại Đại học Hoàng gia, và sau đó trở thành Thạc sĩ Nghệ thuật tại Đại học Cambridge và Oxford. Thời trẻ ông du lịch nhiều nơi ở Pháp, Đức và Ý. Trong suốt cuộc đời, ông đã viết nhiều thơ, trường ca và một số vở kịch.
 
Ông trở nên nổi tiếng trong văn hóa đại chúng nhờ một giả thuyết do John Thomas Looney (1870 – 1944) đưa ra vào năm 1920 (Oxfordian theory), trong đó tuyên bố rằng Edward de Vere, Bá tước thứ 17 của Oxford mới chính là tác giả thực sự của những vở kịch của William Shakespeare.
 
2 bài thơ
 

YÊU SỰ LỰA CHỌN CỦA MÌNH
 
Ai dạy trái tim những tiếng thở dài?
Ai dạy lưỡi nói những lời rên rỉ?
Ai cho đôi mắt dòng lệ đầy vơi?
Và ai biến niềm vui thành nỗi khổ?
 
Ai tô màu tái nhợt lên mặt bạn?
Ai đầu tiên phá hỏng giấc ngủ ngon?
Trong triều đình ai đã ban ân sủng?
Và ai khuyên bạn phải sống đàng hoàng?
 
Hãy đứng vững trên chính nghĩa của mình
Coi khinh người đời nhưng không bè bạn
Và ước mong làm mọi thứ đến cùng
Với những gì đam mê cần chịu đựng.
 
Bạn hãy yêu sự lựa chọn của mình
Và chỉ cái chết mới có quyền hành.
 
Love Thy Choice
 
Who taught thee first to sigh, alas, my heart?
Who taught thy tongue the woeful words of plaint?
Who filled your eyes with tears of bitter smart?
Who gave thee grief and made thy joys to faint?
 
Who first did paint with colours pale thy face?
Who first did break thy sleeps of quiet rest?
Above the rest in court who gave thee grace?
Who made thee strive in honour to be best?
 
In constant truth to bide so firm and sure,
To scorn the world regarding but thy friends?
With patient mind each passion to endure,
In one desire to settle to the end?
 
Love then thy choice wherein such choice thou bind,
As nought but death may ever change thy mind.
 
 


TÍNH HAY THAY ĐỔI CỦA PHỤ NỮ
 
Giá như mà phụ nữ luôn trung thực
Yêu thật lòng, không phụ bạc đàn ông
Thì tôi sẽ hoàn toàn chẳng ngạc nhiên
Khi họ bỏ công sức mà chinh phục.
Nhưng những kẻ yếu đuối do trời sinh
Bắt đàn ông phụng sự mình hết sức.
 
Họ cũng không chọn ai mình phụ bạc
Mà từ thần Ánh sáng đến thần Pan
Họ thường thả ra những con chim ưng
Được bay từ tay này sang tay khác.
Ai không coi rằng mình là kẻ ngốc
Thì để chim bay theo ý của mình.
 
Chỉ đến khi mệt mỏi, cảm thấy buồn
Dường như mình đã bị rơi vào bẫy
Khi ta nhận ra những điều gian dối
Ta mệt nhoài, nhớ lại những trò ngông
Và khi đó với chính mình ta nói:
“Những đồ điên! Ta là một thằng điên!”
 
Woman's Changeableness
 
If women could be fair and yet not fond,
Or that their love were firm not fickle, still,
I would not marvel that they make men bond,
By service long to purchase their good will;
But when I see how frail those creatures are,
I muse that men forget themselves so far.
 
To mark the choice they make, and how they change,
How oft from Phoebus do they flee to Pan,
Unsettled still like haggards wild they range,
These gentle birds that fly from man to man;
Who would not scorn and shake them from the fist
And let them fly fair fools which way they list.
 
Yet for disport we fawn and flatter both,
To pass the time when nothing else can please,
And train them to our lure with subtle oath,
Till, weary of their wiles, ourselves we ease;
And then we say when we their fancy try,
To play with fools, O what a fool was I.