Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020

Thơ Charlotte Brontë

 

Charlotte Brontë (21 tháng 4 năm 1816 – 31 tháng 3 năm 1855) – nữ nhà văn, nhà thơ Anh. Charlotte là chị cả trong số ba chị em nhà Brontë sống sót sau khi trưởng thành và có những cuốn tiểu thuyết trở thành tác phẩm kinh điển của văn học Anh.
 
Tiểu sử
Charlotte Brontë sinh ngày 21 tháng 4 năm 1816 tại Yorkshire, là con thứ ba trong số sáu người con của Maria và Patrick Brontë, một giáo sĩ Anh giáo người Ireland. Maria qua đời vì bệnh ung thư vào ngày 15 tháng 9 năm 1821, để lại 5 cô con gái là Maria, Elizabeth, Charlotte, Emily, Anne và một cậu con trai, Branwell cho người chồng nuôi dưỡng với sự giúp đỡ của người dì.
 
Khi Charlotte lên 8 tuổi, hai chị gái là Maria và Elizabeth chết vì bệnh lao. Sự kiện này khiến Charlotte trở thành người phụ trách gia đình vì là người lớn nhất trong số bốn người con còn lại, điều này đã củng cố nhân cách và tinh thần của cô.
 
Năm 1846, Charlotte thuyết phục các em gái của mình xuất bản một tập thơ dưới những bút danh nam giới: Currer, Ellis, Acton Bell – một thất bại về mặt thương mại (tập thơ này chỉ bán được hai cuốn). Tuy nhiên, vào cuối năm 1847, những tiểu thuyết đầu tay của cả ba chị em đã được xuất bản và “Jane Eyre” của Charlotte Bronte đã thành công ngoài sức tưởng tượng.
 
Sau khi xuất bản cuốn “Shirley” vào năm 1849, một tin đồn lan truyền rằng có một giáo viên bình thường đang ẩn dưới bút danh nam là Currer Bell. Charlotte đã trở thành một người nổi tiếng trong giới văn học và việc xuất bản “Villette” vào năm 1853 càng củng cố thêm danh tiếng của nữ nhà văn.
 
Vào tháng 12 năm 1852, Charlotte nhận được lời cầu hôn từ linh mục Arthur Bell Nicholls. Cha của Charlotte đã phản đối việc này, một phần vì khả năng tài chính của Arthur Bell, mặt khác, ông cho rằng con gái mình sẽ đau đớn khi phải mang thai và sinh em bé mà không để lại hậu quả thảm khốc. Để không làm cha buồn, Charlotte đã từ chối Arthur. Mặc dù vậy, Bell Nicholls vẫn không bỏ cuộc và tiếp tục tán tỉnh, cuối cùng cặp đôi kết hôn vào ngày 29 tháng 6 năm 1854. Cuộc hôn nhân tuy hạnh phúc nhưng rất ngắn ngủi. Charlotte Brontë qua đời trong giai đoạn  cuối của thai kỳ vào ngày 31 tháng 3 năm 1855.
 
Nữ nhà văn được chôn cất trong hầm mộ của gia đình tại Nhà thờ St Michael và tất cả các Thiên thần ở Haworth.
 
3 bài thơ
 

ĐỜI
 
Đời không là một giấc mơ
Mà đêm tối – như người ta thường nói.
Buổi sáng trời đổ cơn mưa nhỏ
Là dấu hiệu của một ngày vui.
 
Đôi khi mưa gió đầy trời
Nhưng rồi qua nhanh sau đấy
Mưa cho hoa hồng tươi lại
Hết buồn là đến vui thôi.
 
Những giờ khắc của cuộc đời
Đã đi không còn quay lại
Tận hưởng những ân huệ ấy
Bởi chúng đang bay, đang bay.
 
Cái chết thì vẫn đâu đây
Theo cuộc đời như chiếc bóng
Khi nào tử thần lên tiếng
Số kiếp sẽ định đoạt thôi.
 
Hy vọng luôn có trong đời
Giúp ta dễ dàng chiến thắng
Hy vọng chính là đôi cánh
Mang ta bay giữa bầu trời.
 
Mặc cho còn nhiều trở ngại
Mà ta sẽ gặp trong đời
Nhưng vinh quang và tuyệt vời
Là những tháng năm đang đợi!
 
Life
 
Life, believe, is not a dream
So dark as sages say;
Oft a little morning rain
Foretells a pleasant day.
 
Sometimes there are clouds of gloom,
But these are transient all;
If the shower will make the roses bloom,
O why lament its fall?
 
Rapidly, merrily,
Life’s sunny hours flit by,
Gratefully, cheerily
Enjoy them as they fly!
 
What though Death at times steps in,
And calls our Best away?
What though sorrow seems to win,
O’er hope, a heavy sway?
 
Yet Hope again elastic springs,
Unconquered, though she fell;
Still buoyant are her golden wings,
Still strong to bear us well.
 
Manfully, fearlessly,
The day of trial bear,
For gloriously, victoriously,
Can courage quell despair!
 
 
VỀ CÁI CHẾT CỦA EMILY
 
Em không bao giờ còn biết
Nỗi đau của cả gia đình
Khổ sở vì không còn em.
Chỉ còn nước mắt an ủi
Trong tuyện vọng và buồn tủi
Trong im lặng, đau buồn.
 
Không còn nỗi đau hằng đêm
Không còn nỗi đau ly biệt
Từng hành hạ tâm hồn em
Khi con tim đau khổ
Và con tim cầu cứu
Một điều gì đó trong đêm.
 
Và em không còn nhớ rằng
Mắt trống rỗng nhìn phía trước
Cuộc đời hoang vu cô độc.
“Mệt mỏi, tăm tối, thê lương
Làm sao chịu được hành trình
Nặng nề và khó nhọc?”
 
Đã qua nỗi đau kinh hoàng
Gia đình mong em yên nghỉ
Cuộc đời là bể khổ.
Cầu Chúa sự bình yên
Và tĩnh lặng, và hân hoan
Khi về với em nơi đó.
 
On the Death of Emily Jane Brontë
 
My darling thou wilt never know
The grinding agony of woe
That we have bourne for thee,
Thus may we consolation tear
E'en from the depth of our despair
And wasting misery.
 
The nightly anguish thou art spared
When all the crushing truth is bared
To the awakening mind,
When the galled heart is pierced with grief,
Till wildly it implores relief,
But small relief can find.
 
Nor know'st thou what it is to lie
Looking forth with streaming eye
On life's lone wilderness.
"Weary, weary, dark and drear,
How shall I the journey bear,
The burden and distress?"
 
Then since thou art spared such pain
We will not wish thee here again;
He that lives must mourn.
God help us through our misery
And give us rest and joy with thee
When we reach our bourne!
 

 
VỀ CÁI CHẾT CỦA ANNE
 
Dường như đời tôi đã hết
Chết không sợ. Sống không thương
Ánh sáng của tôi là em
Tôi chết vì em, nếu được.
 
Tôi thấy, khi đôi mắt khép
Em trút hơi thở cuối cùng
Tôi đợi bóng hoàng hôn
Phủ lên làn da tái nhợt.
 
Để làn gió xua đám mây
Để mặt trời sẽ lặn
Con tim chân thành nồng ấm
Xin đa tạ Chúa điều này.
 
Không ai còn giúp được tôi
Chén cuộc đời uống cạn
Rồi một đêm nào kinh khủng
Tôi một mình sẽ ra đi.
 
On The Death Of Anne Brontë
 
There's little joy in life for me,
 And little terror in the grave;
I've lived the parting hour to see
 Of one I would have died to save.
 
Calmly to watch the failing breath,
 Wishing each sigh might be the last;
Longing to see the shade of death
 O'er those belovèd features cast.
 
The cloud, the stillness that must part
 The darling of my life from me;
And then to thank God from my heart,
 To thank Him well and fervently;
 
Although I knew that we had lost
 The hope and glory of our life;
And now, benighted, tempest-tossed,
 Must bear alone the weary strife.
 

Thơ Thomas Hardy

 


Thomas Hardy (2 tháng 6 năm 1840 – 11 tháng 1 năm 1928) – nhà văn, nhà thơ Anh cuối thời đại Victoria. Ông là nhà văn thiên về tiểu thuyết xã hội thấm đẫm chất bi quan, những nhân vật trong các tác phẩm của ông không chịu đựng được hoàn cảnh sống, đạo đức của xã hội và những đòn đau của số phận.
 
Tiểu sử:
Thomas Hardy sinh ngày 2 tháng 6 năm 1840 tại hạt Dorset ở Tây Nam nước Anh, bên bờ eo biển Anh. Tổ tiên của nhà văn là quý tộc, nhưng sau nghèo đến nỗi cha và ông phải làm thợ xây. Gia đình có hai cậu con trai và hai cô con gái sống ở ngôi làng chỉ có 8 ngôi nhà và dân số là năm mươi người. 
 
Mẹ của Thomas, người biết đọc nhưng không biết viết, đã quyết định rằng con trai bà xứng đáng được hưởng một nền giáo dục tốt hơn những gì bà đã từng nhận được. Giáo dục bắt buộc không tồn tại trong những năm đó và nhiều trẻ em nông thôn lớn lên mà không học đọc hay viết. Thomas là một ngoại lệ – năm chín tuổi, cậu bé được gửi đi học tại trường của giáo xứ.
 
Năm 1856, Thomas Hardy tốt nghiệp trung học ở tuổi 16 và được học kiến trúc do kiến trúc sư John Hicks ở Dorchester dạy. Đồng thời, chàng trai bắt đầu học tiếng Hy Lạp, tiếng Latin với sự hỗ trợ của nhà thơ và nhà ngôn ngữ học William Barnes.
 
Trở về Dorchester với tư cách là một kiến trúc sư độc lập, Hardy đã lên kế hoạch để tiến hành công việc phục chế nhưng đồng thời cũng bắt đầu thực hiện những bước đầu tiên của mình trong văn học. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Thomas, “Gã nghèo và nàng tiểu thư” (The Poor Man and the Lady), không bao giờ đến được với bạn đọc – tác giả đã hủy bản thảo sau khi bị nhà xuất bản từ chối. Để không thất vọng trong tương lai, nhà văn đã xuất bản ẩn danh tác phẩm “Những phương thuốc tuyệt vọng” (Desperate Remedies) năm 1871.
 
Một năm trước đó, Thomas đã gặp người vợ đầu tiên là Emma ở Cornwall và họ cưới nhau năm 1874. Họ sống cùng nhau ở Dorset và London trong mười năm, trong thời gian đó Hardy trở thành một nhà văn chuyên nghiệp. Emma mất năm 1912. Sự công nhận đầu tiên đến với ông nhờ cuốn tiểu thuyết thứ năm, “Xa đám đông điên loạn” (Far from the Madding Crowd) xuất bản lần đầu trên tạp chí Cornhill ở London, và sau đó được xuất bản thành một cuốn sách riêng…
 
Năm 1913, cuốn sách cuối cùng của Hardy, “Người đàn ông thay đổi” (A Changed Man and Other Tales) được xuất bản, nơi ông vẫn trung thành với gốc rễ Dorset của mình. Một năm sau, Hardy bước vào một cuộc hôn nhân mới với nữ nhà văn Florence Dugdale trẻ hơn ông 39 tuổi. Họ sống cùng nhau ở Max Gate cho đến khi Hardy qua đời vào năm 1928, khi ông 87 tuổi. Tro cốt của Thomas Hardy được chôn cất trong Góc Thi sĩ ở Tu viện Westminster và trái tim của ông trong mộ Emma, không xa nơi sinh của nhà văn. Thomas Hardy hai lần được đề cử vào danh sách những người đoạt giải Nobel Văn học.
 
Tác phẩm:
 
Văn
*Gã nghèo và nàng tiểu thư, The Poor Man and the Lady), 1867
*Những phương thuốc tuyệt vọng, Desperate Remedies), 1871
*Dưới tán cây rừng (Under the Greenwood Tree), 1872 
*Mắt biếc (A Pair of Blue Eyes), 1873
*Xa đám đông điên loạn (Far from the Madding Crowd),1874
*Bàn tay của Ethelberta (The Hand of Ethelberta, 1876)
*Trở lại cố hương (The Return of the Native), 1878
*Thị trưởng Casterbridge (The Mayor of Casterbridge), 1886
*Người yêu dấu (The Well Beloved), 1892
*Người đàn ông thay đổi” (A Changed Man), 1913
 
Thơ
*Những bài thơ Wessex (Wessex Poems, Стих.;
*Thơ về quá khứ và hiện tại (Poems of the Past and Present), 1902
*Trò đùa của thời gian (Times Laighing-Stocks), 1909
*Thơ tuyển (Selected Poems), 1916
*Tuyển tập thơ (Collected Poems), 1919
*Thơ cuối đời (Late Lyrics), 1920
 
5 bài thơ
 


BIỆT LY
 
Trời đang đổ cơn mưa
Tiếng xạc xào cây lá
Anh đây – em đâu đó
Trăm dặm giữa hai ta.
 
Giá không vì tiết trời
Giá không vì đường dài
Làm cho ta ly biệt
Có lẽ chỉ nụ cười.
 
Nhưng cái điều ngăn cản
Làm ta phải biệt ly
Mạnh hơn gió, hơn mưa
Và dài hơn năm tháng.
1893
 
The Division
 
Rain on the windows, creaking doors,
With blasts that besom the green,
And I am here, and you are there,
And a hundred miles between!
 
O were it but the weather, Dear,
O were it but the miles
That summed up all our severance,
There might be room for smiles.
 
But that thwart thing betwixt us twain,
Which nothing cleaves or clears,
Is more than distance, Dear, or rain,
And longer than the years!
 
 
VĂN BIA CHO NGƯỜI BI QUAN
 
Tôi là Smith ở Stoke, ngoài sáu mươi
Sống thiếu đàn bà trong suốt cuộc đời
Giờ chỉ một điều ước mong ở Chúa
Giá mà bố tôi xưa cũng giống tôi.
 
Epitaph On A Pessimist
 
I'm Smith of Stoke aged sixty odd
I've lived without a dame all my life
And wish to God
My dad had done the same.
 
 


NGƯỜI MÀ ANH ĐÃ GIẾT
 
Giá mà gặp lại anh
Tôi sẽ ngồi chung bàn
Và cùng nhau rót rượu
Uống với nhau nhẹ nhàng.
 
Nhưng ở ngoài chiến trường
Khi xông lên đối mặt
Thì tôi đã giết chết
Anh ngay chỗ của mình.
 
Vâng, tôi đã bắn anh
Bởi vì anh là giặc
Không còn cách nào khác
Điều đó đã rõ ràng.
 
Có thể, anh cũng từng
Như tôi, không việc làm
Không còn nơi ẩn náu
Mới phải ra chiến trường.
 
Chiến tranh là chiến tranh!
Với người ta đã giết
Có lẽ rượu ta rót
Và chia sẻ chút tiền.
 
The Man He Killed
 
Had he and I but met
By some old ancient inn,
We should have set us down to wet
Right many a nipperkin!
 
But ranged as infantry,
And staring face to face,
I shot at him as he at me,
And killed him in his place.
 
I shot him dead because—
Because he was my foe,
Just so: my foe of course he was;
That's clear enough; although
 
He thought he'd 'list, perhaps,
Off-hand like—just as I—
Was out of work—had sold his traps—
No other reason why.
 
Yes; quaint and curious war is!
You shoot a fellow down
You'd treat, if met where any bar is,
Or help to half a crown.
 
 
ĐÊM THÁNG MƯỜI MỘT
 
Tôi để ý đổi thay
Thời tiết trên cửa kính
Khi cơn gió lay động
Đêm nửa tỉnh nửa mơ.
 
Rồi lá rơi vào phòng
Và lá rơi xuống giường
Cây có điều buồn bã
Muốn nói cùng bóng đêm.
 
Lá chạm vào tay tôi
Tôi nghĩ là em đến
Dường như em đang đứng
Và đã biết điều này!
 
A Night in November
 
I marked when the weather changed,
And the panes began to quake,
And the winds rose up and ranged,
That night, lying half-awake.
 
Dead leaves blew into my room,
And alighted upon my bed,
And a tree declared to the gloom
Its sorrow that they were shed.
 
One leaf of them touched my hand,
And I thought that it was you
There stood as you used to stand,
And saying at last you knew!
 
 

NHÀ THƠ
 
Ánh mắt nhìn nghiêm khắc và kiêu hãnh
Trí tuệ của anh như muốn nói rằng
Anh không cần bữa tối với rượu vang
Và không cần những bàn ăn tự chọn.
 
Tôn vinh của người đời không cần đến
Quyền lực, vinh quang, giàu có không cần
Không cần người hành hương từ xa xăm
Tò mò ghé đến nhà anh thăm viếng.
 
Nhưng khi anh đã đi hết cuộc đời
Và cho bạn người ta mang tin đến
Thì buổi hoàng hôn, giữa trời chạng vạng
Hãy ghé mồ anh và nói những lời:
 
“Dù thơ anh hay dở, nhưng trên đời
Từng yêu anh có hai người phụ nữ”.
Bạn hãy đứng và nói lúc tối trời:
Lời khen cho anh thế này là đủ.
 
A Poet
 
Attentive eyes, fantastic heed,
Assessing minds, he does not need,
Nor urgent writs to sup or dine,
Nor pledges in the roseate wine.
 
For loud acclaim he does not care
By the august or rich or fair,
Nor for smart pilgrims from afar,
Curious on where his hauntings are.
 
But soon or later, when you hear
That he has doffed this wrinkled gear,
Some evening, at the first star-ray,
Come to his graveside, pause and say:
 
'Whatever his message his to tell
Two thoughtful women loved him well.'
Stand and say that amid the dim:
It will be praise enough for him.
 

Thơ John Gay

 


John Gay (30 tháng 6 năm 1685 - 4 tháng 12 năm 1732) là nhà thơ, nhà viết kịch người Anh và là thành viên của Câu lạc bộ Scriblerus. Ông được nhớ đến nhiều nhất với “Vở Opera của gã ăn mày” (The Beggar's Opera, 1728). Ông là người đầu tiên trong số các nhà thơ người Anh viết truyện ngụ ngôn bằng thơ.
 
Tiểu sử:
Sinh ra ở Barnstaple, được rửa tội ở đó vào ngày 16 tháng 9 năm 1685. Ông dành cả tuổi thanh xuân của mình ở quê nhà. Bắt đầu như một trợ lý cho một thương gia buôn vải. Sau một thời gian ngắn Gay bắt đầu công việc viết lách. Tác phẩm “Trí tuệ hiện thời” (The Present State of Wit, 1711) đã cho phép ông làm quen và nhận sự bảo trợ của các nhà văn được kính trọng nhất thời bấy giờ như Alexander Pope, Jonathan Swift, William Congreve…
 
Trong các năm 1712-1714, ông làm thư ký cho Nữ công tước xứ Monmouth và Huân tước Clarendon.
 
Trường ca “Chiếc quạt lông” (The Fan, 1713) đã đưa Gay lên vị trí những nhà thơ hàng đầu ở Anh. Cho đến cuối đời, Gay đã sử dụng những ân huệ của những người bảo trợ cấp cao của mình, những người mà ông từng làm thư ký cho họ. Ông mất tại Luân Đôn ngày 4 tháng 12 năm 1732 và được chôn cất trong Góc Thi sĩ của Tu viện Westminster.
 
Tác phẩm:
*Rượu (Wine, 1708)
*Trí tuệ hiện thời (The Present State of Wit, 1711)
*Niềm vui thôn dã (The Rural Sports, 1713)
*Chiếc quạt lông” (The Fan, 1713)
*Một tuần lễ của người chăn thú (The Shepherd's Week, 1714)
*Điều này quí vị gọi là gì (What D'Ye Call It, 1715)
*Nghệ thuật đi bộ trên đường phố Luân Đôn (The Art of Walking the Streets of London, 1716)
*Ba giờ sau khi cưới (Three Hours After Marriage, 1717)
*Vở Opera của gã ăn mày (The Beggar's Opera, 1728)
*Polly, 1729
*Achille, 1733
 
 


TRÍCH TỪ “VỞ OPERA CỦA GÃ ĂN MÀY”
 
Màn 1, cảnh 7
 
Cô gái trẻ trong độ tuổi thanh xuân
Giống như bông hoa nở giữa cánh đồng
Cả bầy ong đùa chơi và vỗ cánh
Và đàn bướm vui vẻ lượn xung quanh
Nhưng sau đó người cắt hoa để bán
Mang ra khu chợ Covent-Garden
Đến khi hoa héo dần rồi héo hẳn
Hoa bốc mùi, người vứt xuống bàn chân.
 
Beggar's Opera, Act 1, Scene 7
 
Virgins are like the fair Flower in its Lustre,
Which in the Garden enamels the Ground;
Near it the Bees in play flutter and cluster,
And gaudy Butterflies frolick around.
But, when once pluck’d, ’tis no longer alluring,
To Covent-Garden ’tis sent (as yet sweet),
There fades, and shrinks, and grows past all enduring,
Rots, stinks, and dies, and is trod under feet.
 
 

Màn 2, cảnh 22
 
Tuổi trẻ là thời để vui chơi
Là thời để tận hưởng tình yêu
Tình yêu ta được trời ban tặng
Thì ta phải tận hưởng thật đầy
Một khi sức ta còn có thể
Thưởng thức vẻ đẹp của hoa này.
 
Tập tành, uống rượu ngay hôm nay
Đừng bao giờ nói để ngày mai
Tình yêu, tuổi trẻ bay như lướt
Đừng cho uổng phí tháng ngày trôi
Nào cùng uống rượu và nhảy nhót
Tình yêu ra đi cùng tuổi tác
Xuân đi không trở lại trong đời.
 
Beggar's Opera, Act 2, Scene 22
 
Youth’s the Season made for Joys,
Love is then our Duty,
She alone who that employs,
Well deserves her Beauty.
Let’s be gay,
While we may,
Beauty’s a Flower, despis’d in Decay.
 
Let us drink and sport to-day,
Ours is not to-morrow.
Love with Youth flies swift away,
Age is nought but Sorrow.
Dance and sing,
Time’s on the Wing.
Life never knows the Return of Spring.
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO MÌNH
 
Cuộc đời ta giống như một trò hề
Trước nghĩ vậy, nhưng giờ mới nhận ra
 
Epitaphs on himself
 
Life is a jest, and all things show it,
I thought so once, but now I know it.


Thơ Oliver Goldsmith

 


Oliver Goldsmith (10 tháng 11 năm 1728 – 4 tháng 4 năm 1774) – nhà văn, nhà thơ và nhà viết kịch người Ailen, một đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa tình cảm.
 
Tiểu sử:
Ngày tháng năm sinh của Goldsmith không được biết chắc chắn. Theo hồ sơ của Thư viện Quốc hội, ông nói với người viết tiểu sử rằng ông sinh ngày 10 tháng 11 năm 1728. Nơi sinh của ông cũng không chắc chắn. Ông sinh ở thị trấn Pallas, gần Ballymahon, hạt Longford, Ireland, nơi cha ông là giáo sĩ Anh giáo của giáo xứ Forgney, hoặc tại nhà của ông bà ngoại.
 
Năm lên sáu tuổi, Goldsmith đi học. Cũng trong khoảng thời gian đó, ông mắc bệnh đậu mùa, khiến khuôn mặt ông biến dạng mãi mãi.
 
Năm 1749, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Trinity ở Dublin, cố gắng tiếp tục học y khoa tại Edinburgh. Chưa nhận được bằng tốt nghiệp, “Tiến sĩ Goldsmith” tự xưng đã đi đến Châu Âu.
 
Vào đầu năm 1756, Goldsmith trở lại London, nơi ông đã không thành công trong việc cố gắng tìm một công việc của bác sĩ. Ông bắt đầu làm dịch giả và phóng viên, sau đó trên báo chí định kỳ xuất hiện các bài báo, câu chuyện và thơ của ông.
 
Goldsmith trở nên nổi tiếng vào năm 1761 với việc xuất bản “Những bức thư Trung Hoa” mà sau đó, năm 1762, được tập hợp lại trong cuốn sách mang tên “Công dân thế giới, hay là Những bức thư của nhà triết học Trung Hoa sống ở Luân Đôn gửi bạn bè ở Phương Đông” (The Citizen of the World, or Letters from a Chinese Philosopher Residing in London to His Friends in the East).
 
Sự nổi tiếng cho phép ông tham gia nhóm trí thức do Samuel Johnson, Edmund Burke và Joshua Reynolds dẫn đầu. Năm 1764, một nhóm người đứng ra thành lập câu lạc bộ của riêng mình, trong số chín thành viên sáng lập là Goldsmith. Cũng trong năm đó, trường ca “Lữ khách” (The Traveller) của ông nổi tiếng khắp châu Âu.
 
Tác phẩm lớn cuối cùng của Goldsmith là “Đêm của những sai lầm, hay sự sỉ nhục trên niềm kiêu hãnh (She stoops to Conquer, or the Mistakes of a Night) liên tục được dàn dựng trên sân khấu Anh cho đến thế kỷ 20. Một năm sau, nhà văn 43 tuổi đột ngột qua đời và được chôn cất tại Temple Church ở Luân Đôn.
 
Tác phẩm:
*Công dân thế giới, hay là Những bức thư của nhà triết học Trung Hoa sống ở Luân Đôn gửi bạn bè ở Phương Đông (The Citizen of the World, or Letters from a Chinese Philosopher Residing in London to His Friends in the East), 1762
*Lữ khách (The Traveller's Prospect of Society), 1764
*Cha xứ Wakefield (The Vicar of Wakefield), 1766
*Ngôi làng hoang (The Deserted Village), 1770
*Đêm của những sai lầm, hay sự sỉ nhục trên niềm kiêu hãnh (She stoops to Conquer, or the Mistakes of a Night), 1773
 
5 bài thơ
 

BÀI CA
 
Khi người phụ nữ trở nên điên dại
Vì thấy đàn ông phản bội với mình
Khi người phụ nữ đau khổ vô cùng
Nghệ thuật nào sẽ giúp cho cô ấy?
 
Người phụ nữ luôn tìm ra phương thuốc
Để che xấu hổ trước mắt thế gian
Và không cho kẻ phản bội sống yên
Nghệ thuật này – chính là cái chết.
 
Song
(From 'The Vicar Of Wakefield')
 
WHEN lovely woman stoops to folly,
And finds too late that men betray,
What charm can soothe her melancholy,
What art can wash her guilt away?
 
The only art her guilt to cover,
To hide her shame from every eye,
To give repentance to her lover,
And wring his bosom, is -- to die.
 
 
VỀ CHÀNG TRAI ĐẸP BỊ MÙ VÌ SÉT ĐÁNH
 
Số phận anh đã xác định từ đầu
Được ông trời thương nhiều hơn là ghét
Anh trở nên mù như Thần Tình yêu
Để tránh số phận của Narcissus.
 
On a Beautiful Youth, Struck Blind by Lightning
 
Sure’t was by Providence design’d
Rather in pity than in hate,
That he should be, like Cupid, blind,
To save him from Narcissus’ fate.
 
 
HY VỌNG
 
Ta sống bằng hy vọng
Cho đến hết đời này
Trước cái chết, cơn đau
Vẫn cho ta mầm sống.
 
Hy vọng như ánh sáng
Của ngọn nến soi đường
Màn đêm càng tối đen
Ngọn nến càng tỏa sáng.
 
Hope
 
To the last moment of his breath
On Hope the wretch relies,
And even the pang preceding death
Bids Expectation rise.
 
Hope like the gleaming taper’s light
Adorns and cheers our way,
And still as darker grows the night
Emits a brighter ray.
 
 

TRẢ LỜI CỦA CHÚ HỀ
 
Hai chàng quí tộc hỏi John Trott:
“Tại vì sao lừa vẫn có đôi tai?”
John trả lời: “Tôi chẳng đọc sách nhiều
Cũng không mơ hiểu biết bằng ai cả
Nhưng từ nay, khi nhìn vào quí vị
Làm cho tôi nhớ đến những con lừa”.
 
The Clown's Reply
 
JOHN TROTT was desired by two witty peers
To tell them the reason why asses had ears?
'An't please you,' quoth John, 'I'm not given to letters,
Nor dare I pretend to know more than my betters;
Howe'er, from this time I shall ne'er see your graces,        
As I hope to be saved!  without thinking on asses.'
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO EDWARD PURDON
 
Ned Purdon nghèo yên nghỉ ở đây
Cả đời mình ông làm nghề bán sách
Ông đã sống một cuộc đời chết tiệt
Giá được trời ban ông cũng chẳng quay về.
 
Epitaph on Edward Purdon
 
HERE lies poor Ned Purdon, from misery freed,
Who long was a bookseller's hack;
He led such a damnable life in this world, --
I don't think he'll wish to come back.

Thơ Thomas Hood

 


Thomas Hood (23 tháng 5 năm 1799 – 3 tháng 5 năm 1845) – nhà thơ Anh. Nhà phê bình William Michael Rossetti gọi ông là “nhà thơ tiếng Anh hay nhất” giữa các thế hệ của Shelley và Tennyson. Thomas Hood là cha đẻ của nhà viết kịch và danh hài Tom Hood (1835 - 1874).
 
Tiểu sử:
Thomas Hood sinh ngày 23 tháng 5 năm 1799 tại Luân Đôn trong gia đình của một người buôn sách và xuất bản.
 
Năm 14 tuổi, ông rời nhà trường và được gửi đến một văn phòng giao dịch thuộc sở hữu của một người bạn của gia đình. Công việc văn phòng trở nên không thể chịu đựng được, Hood đã bỏ công việc của mình để bắt đầu học như một thợ khắc. Các kỹ năng có được trong quá trình học rất hữu ích sau này, khi ông ấy tự minh họa những bài thơ châm biếm của mình.
 
Thomas Hood bắt đầu viết từ khi còn nhỏ, cộng tác với nhiều tờ báo và các tạp chí ở các tỉnh.
 
Ông bắt đầu sự nghiệp viết lách chuyên nghiệp vào năm 1821 với tư cách là trợ lý biên tập của tạp chí “The London Magazine”, nơi ông được nhận dưới sự bảo trợ của những người bạn là đồng sở hữu của tạp chí này. Trong tòa soạn, ông gặp và có mối quan hệ thân thiện với Charles Lam và Samuel Coleridge. Ông đã xuất bản một số các tác phẩm hài hước và được công chúng đón nhận.
 
Vào những năm 1830, ông in ở tạp chí “The Comic Annual” thường xuyên, trong đó ông đã chế giễu một cách khéo léo những sự kiện trong những năm đó. Ông là tác giả của nhiều bài thơ châm biếm. Tuy nhiên, sự nổi tiếng thế giới là nhờ thơ trữ tình mà ông đã chuyển sang ở những năm cuối đời. Những tác phẩm như: “Bài ca chiếc áo (The Song of the Shirt),  “Giấc mơ của người Phụ nữ (The Lady’s Dream), “Cầu Than thở” (The Bridge of Sighs) vv… mô tả cảnh ngộ của những người lao động gian khổ đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ châu Âu.
 
Thomas Hood qua đời vào ngày 3 tháng 5 năm 1845 tại Luân Đôn.
 
3 bài thơ
 

GỬI NGƯỜI BẠN DỐI GIAN
 
Tay trong tay nhưng lòng ta xa cách
Đôi bàn tay không gặp nữa lần sau
Ta đã từng là bạn tốt của nhau
Nhưng sẽ không còn trong ngày phía trước.
 
Tôi biết rằng từng yêu em một thuở
Rằng tình tôi đã uổng phí, hoài công
Tay gặp gỡ nhưng mà xa cách lòng
Bàn tay ta không bao giờ gặp nữa.
 
Thôi vĩnh biệt bàn tay, trái tim em
Tôi không mong còn gặp nhau lần nữa
Ngay cả vẻ ngoài yêu thương như thế
Cũng phải ra đi với một chút buồn.
 
Dù vẫn ngỡ rằng là bạn của nhau
Nhưng điều gian dối làm sao quên được
Tay găp gỡ nhưng lòng ta xa cách
Chỉ mong rằng không gặp nữa lần sau!
 
To A False Friend
 
Our hands have met, but not our hearts;
Our hands will never meet again.
Friends, if we have ever been,
Friends we cannot now remain:
 
I only know I loved you once,
I only know I loved in vain;
Our hands have met, but not our hearts;
Our hands will never meet again!
 
Then farewell to heart and hand!
I would our hands had never met:
Even the outward form of love
Must be resign′d with some regret.
 
Friends, we still might seem to be,
If I my wrong could e′er forget;
Our hands have join′d but not our hearts:
I would our hands had never met!
 
 


BÀI XTĂNGXƠ
 
I
Vĩnh biệt đời! Đầu óc tôi u ám
Thế giới này mỗi lúc một tối tăm
Khi bóng tối bao trùm lên ánh sáng
Giống như đêm đang đến, đã rất gần.
 
Và mỗi lúc càng lạnh hơn, lạnh hơn
Trên cánh đồng lang thang làn khói xám
Mùi của đất đai bốc lên càng mạnh
Tôi ngửi mùi mốc trên những bông hồng.
 
II
Chào cuộc đời! Thấy phấn khởi trong lòng
Sức lực quay về với niềm hy vọng
Nỗi sợ màu đen chạy dài như bóng
Với vẻ vật vờ trước buổi bình minh.
 
Ánh mặt trời xua cái lạnh, bóng đêm
Và mùi hương ấm nồng trên mặt đất
Đang dần dà xua đi mùi chết chóc
Tôi ngửi mùi hương, mùi của hoa hồng!
 
Stanzas (Farewell life! my senses swim, ...)
 
Farewell life! my senses swim,
And the world is growing dim:
Thronging shadows cloud the light,
Like the advent of the night --
Colder, colder, colder still,
Upward steals a vapor chill;
Strong the earthy odor grows --
I smell the mould above the rose!
 
Welcome life! the spirit strives!
Strength returns and hope revives;
Cloudy fears and shapes forlorn
Fly like shadows at the morn, --
 
O'er the earth there comes a bloom;
Sunny light for sullen gloom,
Warm perfume for vapor cold --
I smell the rose above the mould!
1845
 
 
THƠ TRÀO PHÚNG
 
Sống với nhau thì xung khắc, bất đồng
Người ngạc nhiên sao Peter khóc vợ
Không ngạc nhiên, nước mắt tuôn trên mộ
Xua bụi đi, kẻo vợ sẽ hồi sinh.
 
Epigram
 
After such years of dissension and strife,
Some wonder that Peter should weep for his wife:
But his tears on her grave are nothing surprising, –
He’s laying her dust, for fear of its rising.
  

Thơ Alexander Pope

 

Alexander Pope (21 tháng 5 năm 1688 – 30 tháng 5 năm 1744) – nhà thơ, dịch giả Anh thế kỷ XVIII, một trong những tác giả lớn nhất của Chủ nghĩa Cổ điển Anh. Pope có tần suất trích dẫn trong văn học Anh ở vị trí thứ hai sau Shakespeare.
 
Tiểu sử:
Alexander Pope sinh ở London ngày 21 tháng 5 năm 1688 và được cha mẹ nuôi dưỡng. Họ là những người theo đạo Công giáo, những người buôn lanh. Ở Anh vào thời điểm đó, chính quyền rất quyết liệt với tôn giáo và những người theo Giáo hội La Mã buộc phải sống bí mật.
 
Cha của Pope không thích những người khác tôn giáo đã rời London và định cư tại một khu đất nhỏ ở vùng ven thành phố Windsor. Pope là một cậu bé ốm yếu, gù lưng. Không thể tham gia các trò chơi ngang hàng với bạn bè, cậu bé đã chăm học từ thời thơ ấu để tìm kiếm sự an ủi trong thế giới lý tưởng và đọc rất nhiều sách từ thư viện của cha mình.
 
Cánh cửa đến các trường công lập sau đó đã bị đóng lại với người Công giáo, Pope không có được một nền giáo dục có hệ thống. Người dì ruột đã dạy Pope đọc, một vị linh mục Công giáo đã dạy Pope những bài học đầu tiên về tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Từ năm 12 tuổi Pope đã bắt đầu làm thơ. Nhà phê bình đầu tiên của anh là cha mình, người chỉ nhìn thơ từ khía cạnh hình thức và đánh giá cao vần điệu trên tất cả.
 
Lời khuyên của cha và việc đọc J. Dryden, người mà Pope coi là nhà thơ hay nhất nước Anh, đã xác định ngay từ nhỏ rằng ông mong muốn hướng về các chủ đề cổ điển trong nội dung và sự trong sạch của hình thức.
 
Pope đã cải cách và đa dạng hóa thơ Anh, phát triển thể thơ Alexandrian. Ông đã dịch “Iliad” của Homer sang tiếng Anh và có sự tham gia của một số người khác – dịch Odyssey. Pope là tác giả của một số tác phẩm thơ triết học và trào phúng sâu sắc. Ông cũng là tác giả của văn bia trên mộ của Ngài Isaac Newton.
 
Ngay từ thời thơ ấu sức khỏe của Pope đã đáng báo động đối với các bác sĩ, nhưng ông đã sống nhiều năm hạnh phúc. Nguyên nhân chính xác về cái chết của ông vẫn chưa được xác định, nhưng theo bằng chứng, điều này đã xảy ra vào ngày 30 tháng 5 năm 1744 tại Twickenham trong sự chứng kiến của người thân và bạn bè.
 
3 bài thơ
 


BÀI THƠ VỀ SỰ CÔ ĐƠN
 
Hạnh phúc cho người chỉ ước mong
Cấy cày trên đất của cha ông
Ai người hít thở bầu không khí
Trên đất, trên ruộng của riêng mình.
 
Ai người có sữa, lúa trên đồng
Có lông cừu chiên dệt áo quần
Có cây ngày hè cho bóng mát
Và cho lửa ấm giữa mùa đông.
 
Hạnh phúc cho người chẳng quan tâm
Mặc cho ngày tháng cứ trôi nhanh
Thân thể tráng cường, tâm trí sáng
Sống vui trong những tháng ngày êm.
 
Giấc ngủ thật sâu, thật nhẹ nhàng
Trong sự vô tư, sự bình yên
Chính sự vô tư này cho phép
Chỉ tôi suy nghĩ với chính mình.
 
Hãy để cho tôi sống vô danh
Để khỏi ai rơi giọt lệ buồn
Và để mai này, khi tôi chết
Hòn đá không ghi chỗ tôi nằm.
_____________
*Bài thơ này Pope viết năm lên 12 tuổi.
 
Ode on Solitude
 
Happy the man, whose wish and care
A few paternal acres bound,
Content to breathe his native air,
In his own ground.
 
Whose herds with milk, whose fields with bread,
Whose flocks supply him with attire,
Whose trees in summer yield him shade,
In winter fire.
 
Blest, who can unconcernedly find
Hours, days, and years slide soft away,
In health of body, peace of mind,
Quiet by day,
 
Sound sleep by night; study and ease,
Together mixed; sweet recreation;
And innocence, which most does please,
With meditation.
 
Thus let me live, unseen, unknown;
Thus unlamented let me die;
Steal from the world, and not a stone
Tell where I lie.
 
 


THƠ MỘ CHÍ CHO ISAAC NEWTON
 
Khi bóng tối bao trùm khắp thế gian
Chúa bảo: Sẽ có sự sáng. Và xuất hiện Newton!
 
Epitaph for Sir Isaac Newton
 
Nature and nature's laws lay hid in night:
God said, Let Newton be! and all was light.
 
Thường thì sau bài văn bia này là bài văn bia của nhà thơ John Collings Squire (1884 – 1958) về nhà bác học Albert Einstein (1879 – 1855) được coi là bài văn bia đối lại bài văn bia trên của Pope:
 
Nhưng Quỉ sứ không lâu sau trả thù:
“Einstein hãy đến!” và mọi thứ như xưa.
 
It did not last: the Devil howling "Ho!
Let Einstein be!" restored the status quo.
 
John Collings Squire,
Answer to Pope's Epitaph for Sir Isaac Newton
 
 
THƠ MỘ CHÍ CHO JOHN GAY*
 
Gay bất hạnh đã nằm trong mồ tối
John đáng thương đã có sự yên bình
Người đời đã thiếu công bằng với anh
Mười đổi một, anh cũng không quay lại.
___________
*John Gay (1685 – 1732) – Nhà thơ Anh, người đầu tiên viết ngụ ngôn bằng thơ.
 
Epitaph for John Gay
 
Well, then poor G- lies under ground!
So there's an end of honest Jack.
So little justice here he found,
'Tis ten to one he'll ne'er come back.