Thứ Năm, 26 tháng 1, 2017

Thơ William Blake


William Blake (28 tháng 11 năm 1757 – 12 tháng 8 năm 1827) – là nhà thơ, hoạ sĩ Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ XVIII. Thơ ca của William Blake là một hiện tượng, chuyển từ thơ ca thế kỉ ánh sáng sang thơ ca lãng mạn của Keats, Shelley. Năm 1957 Hội đồng Hòa bình Thế giới kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông. Năm 2002 đài BBC bầu chọn 100 người Anh vĩ đại nhất mọi thời đại, William Blake được bầu ở vị trí 38.

Tiểu sử
William Blake sinh ở Broad Street, Golden Square, London, là con trai của một nhà buôn hàng vải. Lên 10 tuổi bắt đầu học vẽ, năm 1778 vào học Royal Academy ở Old Somerset House. Năm 1880 công bố bức tranh đầu tiên. Năm 1873 bạn bè bỏ tiền in cho cuốn Những phác họa thơ ca (Poetical Sketches). Đến năm 30 tuổi William Bake chỉ được một số ít người biết đến nhưng bắt đầu nổi tiếng sau khi minh hoạ cho cuốn Những suy ngẫm về đêm (Night Thoughts).

  Năm 1782, Blake gặp Catherine Boucher, người sau đó trở thành vợ ông. Trong thời gian này, Blake đang hồi phục sau mối quan hệ mà đỉnh điểm là bị từ chối lời cầu hôn. Blake kể lại chi tiết câu chuyện đau buồn này cho Catherine và bố mẹ cô nghe, sau đó ông hỏi cô gái: “Em có thương hại anh không?” Khi Catherine trả lời bằng câu khẳng định, Blake thú nhận: “Vậy thì anh yêu em”. William Blake và Catherine Boucher, người kém ông 5 tuổi, đã kết hôn tại nhà thờ St.Mary ở Battersea. Không biết chữ, Catherine đã đánh dấu X vào giấy đăng ký kết hôn thay vì chữ ký. Sau đó, ngoài việc dạy Catherine đọc và viết, Blake còn dạy cô nghệ thuật chạm khắc. Trong suốt cuộc đời, Blake hiểu sự giúp đỡ và hỗ trợ của người phụ nữ này là vô giá như thế nào đối với ông. Giữa vô số thất bại, Catherine đã không để ngọn lửa cảm hứng tắt ngấm trong tâm hồn chồng, đồng thời cô tham gia vào việc in nhiều tranh minh họa của ông.
Năm 1818 Blake làm quen và kết bạn với họa sĩ trẻ John Linnell, người gợi ý và tài trợ cho Blake vẽ minh hoạ cuốn Job của Kinh Thánh. Sau đó, cũng với sự giúp đỡ của John Linnell, Blake vẽ những bức tranh minh hoạ cho phần Địa ngục (Inferno) của Dante.

Về thơ ca, William Blake cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu. Thơ của Blake bao gồm thơ trữ tình và thơ triết học. Năm 1789 ông in cuốn Những bài hát ngây thơ (Songs of Innocence), gồm những bài thơ và hình minh hoạ. Năm 1794 Những khúc hát ngây thơ (Songs of Innocence), in cùng Những bài hát kinh nghiệm (Songs of Experience). Blake đón chào Cách mạng Pháp bằng trường ca Cách mạng Pháp (The French Revolution, 1791).

Những năm cuối đời Blake sống tại Fountain Court gần phố Strand (ngôi nhà nơi ông sống đã bị phá hủy trong quá trình xây dựng khách sạn Savoy). Vào ngày ông qua đời, Blake đã làm việc không ngừng nghỉ để vẽ tranh minh họa cho tác phẩm của Dante. Ông gác công việc sang một bên và quay sang vợ, người lúc nào cũng ngồi trên giường cạnh ông, không kìm được nước mắt. Nhìn cô, ông thốt lên: “Em ơi, Kate, em hãy ngồi yên, anh sẽ vẽ chân dung của em ngay bây giờ. Em mãi mãi là thiên thần của anh”. Sau khi hoàn thành bức chân dung (giờ đã mất), Blake đặt bút vẽ sang một bên và bắt đầu hát những bài thánh ca và đọc thơ. Vào 6 giờ chiều cùng ngày, sau khi hứa với vợ rằng ông sẽ ở bên cô mãi mãi, Blake đã qua đời. Một người phụ nữ sống cùng nhà và có mặt trong phút lâm chung của Blake nói: “Tôi thấy cái chết dường như không phải của con người mà là của một thiên thần may mắn”.

Từ năm 1965, vị trí chính xác của mộ William Blake đã bị mất, nghĩa trang bị hư hại nặng nề trong chiến tranh Thế giới thứ hai, các di tích bị dỡ bỏ và một khu vườn được hình thành tại khu chôn cất. Ký ức về nhà thơ đã được bất tử hóa bằng tấm bia với dòng chữ “Gần nơi này là di cốt của nhà thơ, họa sĩ William Blake (1757-1827) và vợ Catherine Sophia Boucher (1762-1831)”, nó nằm cách nơi chôn cất thực tế khoảng 20 mét. Vị trí chính xác của ngôi mộ do một cặp vợ chồng người Bồ Đào Nha, Carol và Luís Garrido phát hiện sau 14 năm điều tra và tìm kiếm. Hội Blake đã tổ chức buổi lễ tưởng niệm và đặt một bia mộ trên đó với dòng chữ “William Blake 1757-1827, nhà thơ, họa sĩ, nhà tiên tri yên nghỉ ở đây” cùng với những dòng từ bài thơ “Jerusalem” của ông, bia mộ được khánh thành ngày 12 tháng 8 năm 2018.
 
Từ sau năm 1790, Blake xuất bản một loạt sách có minh hoạ, gồm:  

- Đám cưới của Thiên đường và Địa ngục (The Marriage of Heaven and Hell)
- Cách ngôn của Địa ngục (Proverbs of Hell)
- Cuốn sách đầu của Urizen (The First Book of Urizen)
- Nước Mỹ và tiên tri (America, a Prophecy)
- Sách Ahania (The Book of Ahania)
- Bài ca của Los (The Song of Los)
- Sách của Los (The Book of Los)
- Châu Âu (Europe)
- Vala, giấc mộng của chín đêm (Vala, a Dream of Nine Nights)
- Jerusalem (Jerusalem)
- Sách Phúc âm muôn thuở (The Everlasting Gospel) 
- Milton: Thơ (Milton: a Poems)

47 bài thơ Song Ngữ


NHỮNG BÀI HÁT NGÂY THƠ VÀ KINH NGHIỆM
(Songs of Innocence and of Experience)

Những bài hát Ngây thơ và Kinh nghiệm cho thấy hai trạng thái trái ngược của tâm hồn con người. (Songs of Innocence and of Experience Shewing the Two Contrary States of the Human Soul”. 

Tập “Bài hát ngây thơ” (Songs of Innocence) (10 bài) 

LỜI DẪN NHẬP 

Ống sáo ở trên môi
Thổi bài ca vui vẻ
Thấy trong mây cậu bé
Đang cười, nói với tôi:

“Hãy thổi bài con cừu”
Và tôi chơi vui vẻ
“Hãy thổi thêm lần nữa”
Cậu bé nước mắt rơi.

“Bỏ xuống ống sáo kia
Hát bài ca hạnh phúc”
Vì vậy, tôi lại hát
Cậu vui vẻ lắng nghe.

“Hãy ngồi xuống, viết ra
Cho mọi người đều đọc”
Nói xong cậu biến mất
Tôi biết phải làm gì.

Tôi dùng cây gậy kia
Và tôi làm đục nước
Viết bài ca hạnh phúc
Cho con trẻ mua vui.
_____________

*Thơ của Blake, cũng như bất kỳ thứ thơ nghiêm túc nào, đòi hỏi phải đọc cẩn thận và chu đáo. Nếu để chú thích rõ thì phải viết ra phần chú giải riêng rất dài dòng. Tuy nhiên, trước mắt, chúng tôi chưa làm điều này vì trong nguyên bản tiếng Anh đã được chú giải rất đầy đủ. Ngay cả trong từ điển mở Wikipedia thì tất cả các bài thơ của “Bài hát ngây thơ” và “Bài hát kinh nghiệm” đều có một bài viết riêng cho từng bài, phân tích rất cụ thể. Chúng tôi chỉ chú thích một số chỗ thấy cần phải có chú thích vì hiện tại chưa có đủ thời gian để dịch hết tất cả quyển thơ này. 

Introduction to the Songs of Innocence

Piping down the valleys wild 
Piping songs of pleasant glee 
On a cloud I saw a child. 
And he laughing said to me. 

Pipe a song about a Lamb; 
So I piped with merry chear, 
Piper pipe that song again— 
So I piped, he wept to hear.

Drop thy pipe thy happy pipe 
Sing thy songs of happy chear, 
So I sung the same again 
While he wept with joy to hear 

Piper sit thee down and write
In a book that all may read— 
So he vanish'd from my sight. 
And I pluck'd a hollow reed. 

And I made a rural pen,
And I stain'd the water clear,
And I wrote my happy songs
Every child may joy to hear.


NGƯỜI CHĂN THÚ

Đời người chăn thú thật đáng ghen
Người thức trong buổi sớm bình minh
Cả ngày chăn thú trên đồng cỏ
Ca tụng Chúa Trời sáo thổi vang.

Người chăn nghe tiếng của cừu non
Như nghe lời đáp lại dịu dàng
Người cảnh giác, những con thú biết
Rằng có người chăn ở bên mình.
____________________
*Người chăn ở đây là người chăn thú, là nhà thơ, là Chúa Trời, “người chăn ở bên mình”. Xem thêm bài thơ “Tìm thấy đứa trẻ” câu chuyện về đứa trẻ mà “Bắt đầu khóc, nhưng Chúa; Xuất hiện như cha mình”… 

The Shepherd

How sweet is the Shepherd's sweet lot!
From the morn to the evening he strays;
He shall follow his sheep all the day,
And his tongue shall be filled with praise.

For he hears the lamb's innocent call,
And he hears the ewe's tender reply;
He is watchful while they are in peace,
For they know when their Shepherd is nigh.


TIẾNG VỌNG MÀU XANH

Mặt trời đang mọc lên
Cho bầu trời hạnh phúc
Cây chuông vui vẻ hát
Để chào đón mùa xuân
Tiếng chim hót trên cành
Tiếng chim hót trong bụi
Hãy hát to hơn nữa
Tiếng vui vẻ của chuông
Còn chúng mình nhảy múa
Giữa tiếng vọng màu xanh.

John già tóc bạc trắng
Ngồi dưới gốc cây sồi
Và John vui vẻ cười
Cùng với nhiều người bạn
Họ vui vẻ trò chuyện
Và nói với chúng tôi:
“Ta cũng từng như vầy
Trong cái thời bé dại
Cũng chơi đùa như vậy
Giữa tiếng vọng màu xanh”.

Chơi đến tận hoàng hôn
Ai cũng đều mệt cả
Không còn sức chơi nữa
Cuộc vui đến lúc dừng
Ơi các chị, các anh
Ta cùng đi tìm mẹ
Như chim bay về tổ
Bữa tối đã sẵn sàng
Không còn đùa vui nữa
Giữa bóng tối màu xanh.

The Echoing Green

The Sun does arise,
And make happy the skies;
The merry bells ring
To welcome the Spring;
The skylark and thrush,
The birds of the bush,
Sing louder around
To the bells' cheerful sound,
While our sports shall be seen
On the Echoing Green.

Old John, with white hair,
Does laugh away care,
Sitting under the oak,
Among the old folk.
They laugh at our play,
And soon they all say:
 'Such, such were the joys
When we all, girls and boys,
In our youth time were seen
On the Echoing Green.'

Till the little ones, weary,
No more can be merry;
The sun does descend,
And our sports have an end.
Round the laps of their mothers
Many sisters and brothers,
Like birds in their nest,
Are ready for rest,
And sport no more seen
On the darkening Green. 


CHIÊN NHỎ

  Chiên nhỏ ơi có biết
  Ai đã tạo ra ngươi?
Ai cho ngươi cuộc đời
Dòng suối và đồng cỏ
Cho bộ lông đẹp đẽ
Cho kẻ chăn dắt ngươi
Cho tiếng kêu dịu nhẹ
Và cho những niềm vui?
  Chiên nhỏ ơi có biết
  Ai đã tạo ra ngươi?

  Chiên nhỏ hãy nghe đây
  Chiên nhỏ hãy nghe này.
Ngài gọi ngươi như vậy
Bởi gọi mình là Chiên
Ngài êm dịu, hiền lành
Cũng từng là đứa trẻ
Ta và ngươi được gọi
Bằng cái tên là Chiên!
  Chiên nhỏ, Chúa bảo vệ!
  Và Chúa ban phước lành!
_______________
*Con chiên là một phép ẩn dụ phổ biến cho Chúa Giê-su, người còn được gọi là “Con chiên của Đức Chúa Trời” trong Giăng 1:29. Hoặc: “Ta là người chăn chiên hiền lành, ta quen chiên ta và chiên ta quen ta” trong Giăng 10:14. 

The Lamb
         
         Little Lamb who made thee 
         Dost thou know who made thee 
Gave thee life & bid thee feed. 
By the stream & o'er the mead;
Gave thee clothing of delight,
Softest clothing wooly bright;
Gave thee such a tender voice,
Making all the vales rejoice! 
         Little Lamb who made thee 
         Dost thou know who made thee 

         Little Lamb I'll tell thee,
         Little Lamb I'll tell thee!
He is called by thy name,
For he calls himself a Lamb: 
He is meek & he is mild, 
He became a little child: 
I a child & thou a lamb, 
We are called by his name.
         Little Lamb God bless thee. 
         Little Lamb God bless thee.


CẬU BÉ DA ĐEN

Mẹ sinh tôi ở vùng đất phương nam
Da tôi đen nhưng linh hồn tôi trắng
Cậu bé người Anh – thiên thần da trắng
Còn tôi đen như ánh sáng không còn.

Mẹ tôi thường dạy tôi dưới gốc cây
Để tránh cơn nóng của ngày đang đến
Mẹ hôn tôi bằng nụ hôn đằm thắm
Chỉ về hướng đông, mẹ nói như vầy:

“Hãy nhìn mặt trời lên, Chúa ở đây
Ban cho đời ánh sáng và bóng tối
Cho muông thú, con người và cây cối
Sáng – an nhàn, còn trưa có niềm vui.

Và ta chịu đựng tia nắng của tình
Khi ta sống trong không gian bé bỏng
Cơ thể đen, khuôn mặt ta cháy nắng
Là như mây đen, như gió, như rừng.

Khi ta học được cơn nóng cho hồn
Mây sẽ tan, và ta nghe tiếng gọi:
Hỡi những con chiên mà ta yêu dấu
Hãy bước lên vui vẻ chốn thiên đường”.

Khi nói xong những lời, mẹ hôn tôi
Tôi kể lại cho người Anh da trắng:
Rằng khi trút bỏ bộ da đen – trắng 
Ta đều con chiên về với Chúa Trời.

Tôi sẽ giúp bạn chịu cơn nóng này
Trên con đường về nguồn nhờ ân sủng
Và tôi vuốt ve mái tóc màu sáng
Như anh em, và bạn sẽ yêu tôi. 

The Little Black Boy

My mother bore me in the southern wild,
And I am black, but O! my soul is white;
White as an angel is the English child,
But I am black, as if bereaved of light.

My mother told me underneath a tree,
And sitting down before the heat of day,
She took me on her lap and kissed me,
And pointing to the east, began to say:

“Look on the rising sun: there God does live,
And gives His light, and gives His heat away;
And flowers and trees and beasts and men receive
Comfort in morning, joy in the noonday.

“And we are put on earth a little space,
That we may learn to bear the beams of love;
And the black bodies and this sunburnt face
Is but a cloud, and like a shady grove.

“For when our souls have learned the heat to bear,
The cloud will vanish; we shall hear His voice,
Saying: ‘Come out from the grove, my love and care,
And round my golden tent like lambs rejoice.”

This did my mother say, and kissed me;
And thus I say to little English boy:
When I from black and he from white cloud free,
And round the tent of God like lambs we joy,

I’ll shade him from the heat, till he can bear
To lean in joy upon our Father’s knee;
And then I’ll stand and stroke his silver hair,
And be like him, and he will then love me.



ĐỨA TRẺ BỊ LẠC

Cha ơi đừng vội vàng
Xin Cha đi chậm lại
Hãy trò chuyện với con
Nếu không, con lạc lối.

Đêm tối, cha chẳng thấy
Đứa trẻ ướt đầm sương
Đứa trẻ khóc nức nở
Chỉ sương khói bay lên.

The Little Boy Lost

‘Father! father! where are you going?
O do not walk so fast.
Speak, father, speak to your little boy,
Or else I shall be lost.’

The night was dark, no father was there;
The child was wet with dew;
The mire was deep, and the child did weep,
And away the vapour flew.


TÌM THẤY ĐỨA TRẺ 

Đứa bé trong cô đơn
Theo ánh sáng lang thang
Bắt đầu khóc, nhưng Chúa
Xuất hiện như cha mình. 

Và Ngài hôn đứa trẻ
Cầm tay dẫn về mẹ
Người mẹ đang cô đơn
Khóc lóc đi tìm bé.

The Little Boy Found

The little boy lost in the lonely fen,
Led by the wandering light,
Began to cry, but God, ever nigh,
Appeared like his father, in white.

He kissed the child, and by the hand led,
And to his mother brought,
Who in sorrow pale, through the lonely dale,
The little boy weeping sought. 


BÀI HÁT VUI

Khi rừng xanh cười với vẻ hân hoan
Cười tưng bừng trong từng con suối nhỏ 
Nghe cả tiếng cười trong bầu không khí
Và tiếng cười vang vọng cả đồi xanh.

Khi đồng cỏ mỉm cười với cỏ kia 
Thì châu chấu cũng cười rất vui vẻ
Susan, Mary, Emily cũng thế
Cười thật vui và hát: “Ha ha he!”

Cười trong bóng râm những con sơn ca
Khi trên bàn bày biện đầy hoa quả
Thì hãy đến để cùng chung vui nhé
Cùng hát lên câu hát “Ha ha he!”

Laughing Song

When the green woods laugh with the voice of joy,
And the dimpling stream runs laughing by;
When the air does laugh with our merry wit,
And the green hill laughs with the noise of it;

When the meadows laugh with lively green,
And the grasshopper laughs in the merry scene;
When Mary and Susan and Emily
With their sweet round mouths sing 'Ha ha he!'

When the painted birds laugh in the shade,
Where our table with cherries and nuts is spread:
Come live, and be merry, and join with me,
To sing the sweet chorus of 'Ha ha he!'




HÌNH ẢNH THÁNH THẦN 

Tình yêu, lòng thương xót, sự yên bình
Ta thường cầu xin mỗi khi đau khổ
Và ta đáp lại những ân huệ đó
Bằng sự biết ơn công đức bề trên.

Tình yêu, lòng thương xót, sự yên bình
Đấy là Cha thân yêu, là Thiên Chúa
Và yên bình, tình yêu, lòng thương đó
Trong tâm hồn, trong thể xác chúng con.

Lòng từ bi mang gương mặt người trần
Gương mặt người ở trong lòng trắc ẩn
Và tình yêu mang vẻ đầy thánh thiện
Sự yên bình – trang phục của trần gian.

Con người trong mọi thời đại, vùng miền
Trong đau khổ vẫn cất lời cầu nguyện
Cầu xin ở một con người thánh thiện
Tình yêu, lòng thương xót, sự yên bình.

Cho mọi con người sống ở trần gian
Dù người Thổ, Do Thái – người ngoại đạo
Nơi có Chúa của mình đang ngự trị
Có tình yêu, thương xót, sự yên bình.

The Divine Image

To Mercy, Pity, Peace, and Love
All pray in their distress;
And to these virtues of delight
Return their thankfulness.

For Mercy, Pity, Peace, and Love
Is God, our father dear,
And Mercy, Pity, Peace, and Love
Is Man, his child and care.

For Mercy has a human heart,
Pity a human face,
And Love, the human form divine,
And Peace, the human dress.

Then every man, of every clime,
That prays in his distress,
Prays to the human form divine,
Love, Mercy, Pity, Peace.

And all must love the human form,
In heathen, Turk, or Jew;
Where Mercy, Love, and Pity dwell
There God is dwelling too.


NIỀM VUI CON TRẺ

“Hãy đặt tên cho tôi
Tôi mới hai ngày tuổi!”
“Đặt tên con gì vậy?”
“Hạnh phúc tôi tìm thấy
Tên tôi là niềm vui”
“Ừ, tên con như vậy!”

Niềm vui của ta ơi!
Con chỉ mới hai ngày
Tên là vui ta gọi
Ta nhìn vào niềm vui
Và hát lên như vậy
Con sẽ vui suốt đời!

Infant Joy

‘I have no name:
I am but two days old.’
What shall I call thee?
‘I happy am,
Joy is my name.’
Sweet joy befall thee!

Pretty joy!
Sweet joy, but two days old.
Sweet joy I call thee:
Thou dost smile,
I sing the while,
Sweet joy befall thee!

==   

Tập “Bài hát Kinh nghiệm” (Songs of Experience) (17 bài) 

LỜI DẪN NHẬP

Hãy lắng nghe Thi Sĩ
Nhìn thấu mọi thời gian
Và tai Người nghe rõ
Những lời của thánh thần
Giữa những cây cổ thụ.

Lời gọi hồn lầm lẫn
Và khóc giữa sương đêm
Còn bầu trời tối đen
Được sao trời thắp sáng
Trần gian hết tối tăm!

Thức dậy khỏi màn sương
Mặt đất hãy quay lại! 
Bóng đêm đang suy tàn
Và bình minh thức dậy
Từ giấc ngủ mơ màng.

Thức dậy, đêm đã tàn
Giờ đợi chờ đang đến
Bầu trời sao trong đêm
Và nước ngập trên bến
Ngày đến sẽ không còn.

Introduction to the Songs of Experience

Hear the voice of the Bard!
Who Present, Past, & Future sees 
Whose ears have heard, 
The Holy Word, 
That walk'd among the ancient trees. 

Calling the lapsed Soul 
And weeping in the evening dew: 
That might controll, 
The starry pole; 
And fallen fallen light renew!

O Earth O Earth return!
Arise from out the dewy grass;
Night is worn,
And the morn
Rises from the slumberous mass.

Turn away no more: 
Why wilt thou turn away 
The starry floor 
The watry shore 
Is giv'n thee till the break of day.


MẶT ĐẤT TRẢ LỜI

Mặt đất ngẩng cao đầu
Từ bóng đêm dày đặc
Ánh sáng đã biến mất
Chỉ nỗi sợ không thôi
Và mặt đất trả lời:

“Con nằm đây, trên bờ
Sao trời hay ganh tỵ
Băng giá trên thân thể
Con khóc và nghe lời
Cha người muôn năm cũ.

Cha người vốn ích kỷ
Tàn nhẫn và ghen tuông
Niềm vui giấu vào đêm
Sự ngây thơ tuổi trẻ
Bị giữ trong gông xiềng.

Chẳng lẽ hoa mùa xuân
Chiêm ngưỡng thì bị cấm?
Chẳng lẽ người gieo giống
Phải gieo vào ban đêm?
Và trong đêm cày ruộng?

Hãy phá bỏ gông xiềng
Trên cổ đang đè nặng
Lời nguyền rủa muôn năm!
Hãy giải thoát, cho tình
Tự do và phóng khoáng”.

Earth's Answer

Earth raised up her head
From the darkness dread and drear,
Her light fled,
Stony, dread,
And her locks covered with grey despair.

'Prisoned on watery shore,
Starry jealousy does keep my den
Cold and hoar;
Weeping o'er,
I hear the father of the ancient men.

'Selfish father of men!
Cruel, jealous, selfish fear!
Can delight,
Chained in night,
The virgins of youth and morning bear.

'Does spring hide its joy,
When buds and blossoms grow?
Does the sower
Sow by night,
Or the ploughman in darkness plough?

'Break this heavy chain,
That does freeze my bones around!
Selfish, vain,
Eternal bane,
That free love with bondage bound.'


CỤC ĐẤT VÀ HÒN ĐÁ

“Tình không đi tìm niềm vui cho mình
Mà tình vui trước hạnh phúc người khác
Không cần quan tâm đến bản thân mình
Xây chốn thiên đường ở nơi địa ngục”.

Những lời trên mà cục đất đã hát
Khi bị những bàn chân thú giẫm lên
Nhưng hòn đá dưới suối lại hát vang
Bằng những nghĩ suy hoàn toàn trái ngược:

“Tình chỉ tìm niềm vui cho bản thân
Tình không quan tâm khi người hạnh phúc
Bởi người được nghĩa là mình mất mát
Tình xây địa ngục ở chốn thiên đường”.

The Clod and the Pebble

"Love seeketh not itself to please,
Nor for itself hath any care,
But for another gives its ease,
And builds a Heaven in Hell's despair."

So sung a little Clod of Clay
Trodden with the cattle's feet,
But a Pebble of the brook
Warbled out these metres meet:

"Love seeketh only self to please,
To bind another to its delight,
Joys in another's loss of ease,
And builds a Hell in Heaven's despite."


CÔ BÉ BỊ LẠC

Trong tương lai xôi
Ta tiên tri như vầy:
Mặt đất sẽ thức dậy
Từ giấc ngủ rất sâu.

Thức dậy và đi tìm
Đấng Tạo Hóa dịu dàng
Và vùng đất hoang dã
Trở nên vườn địa đàng.

==
Ở vùng đất phương nam
Nơi mùa hè vĩnh hằng
Sau chặng đường mệt mỏi
Lyca đáng yêu nằm.

Bảy mùa hè trôi nhanh
Lyca nằm nhớ lại
Đi trong rừng hoang dã
Lắng nghe tiếng chim rừng.

“Giấc ngủ hãy đến đây
Đến bên dưới cây này
Cha mẹ giờ đang khóc?
Lyca ngủ ở đâu?

Lạc vào nơi hoang mạc
Con gái của mẹ cha
Làm sao ngủ khi mà
Mẹ của con đang khóc?

Nếu như mẹ đau buồn
Thì con không ngủ được
Và con sẽ không khóc
Nếu như mẹ ngủ ngon.

Và nghe này màn đêm
Không làm sao ngủ được
Tôi bắt đầu nhắm mắt
Khi có ánh trăng lên”.

Và Lyca nằm ngủ
Khi những con thú rừng
Bước ra từ trong hang
Đến nhìn cô bé ngủ.

Con sử tử đầu đàn
Đưa mắt nhìn cô bé
Nhảy một vòng quanh đó
Trên mặt đất thiêng liêng.

Hổ báo đi vòng quanh
Nơi cô bé đang nằm
Con sư tử già nhất
Cúi chiếc bờm màu vàng.

Sư tử liếm lên ngực
Và lên cổ Lyca
Từ mắt rực lửa kia
Rơi những dòng nước mắt.

Sư tử cái dịu dàng
Cởi áo quần cô bé
Và trong khi cô ngủ
Đưa cô bé về hang.

The Little Girl Lost

In futurity
I prophesy
That the earth from sleep
(Grave the sentence deep)

Shall arise, and seek
For her Maker meek;
And the desert wild
Become a garden mild.  

== 
In the southern clime,
Where the summer's prime
Never fades away,
Lovely Lyca lay.

Seven summers old
Lovely Lyca told.
She had wandered long,
Hearing wild birds' song.

'Sweet sleep, come to me,
Underneath this tree;
Do father, mother, weep?
Where can Lyca sleep?

'Lost in desert wild
Is your little child.
How can Lyca sleep
If her mother weep?

'If her heart does ache,
Then let Lyca wake;
If my mother sleep,
Lyca shall not weep.

'Frowning, frowning night,
O'er this desert bright
Let thy moon arise,
While I close my eyes.'

Sleeping Lyca lay,
While the beasts of prey,
Come from caverns deep,
Viewed the maid asleep.

The kingly lion stood,
And the virgin viewed:
Then he gambolled round
O'er the hallowed ground.

Leopards, tigers, play
Round her as she lay;
While the lion old
Bowed his mane of gold,

And her bosom lick,
And upon her neck,
From his eyes of flame,
Ruby tears there came;

While the lioness
Loosed her slender dress,
And naked they conveyed
To caves the sleeping maid.




TÌM THẤY CÔ BÉ

Suốt cả đêm đau khổ
Bố mẹ tìm Lyca
Thung sâu và rừng già
Cũng khóc lên chia sẻ.

Tìm con suốt bảy ngày
Mệt mỏi và khốn khổ
Con ở đâu không thấy
Chỉ thấy nước mắt rơi.

Suốt bảy đêm họ ngủ
Ở giữa những cánh rừng 
Họ mơ thấy con mình
Đói giữa rừng hoang dã.

Đường trong rừng chẳng có
Rát bỏng dưới bàn chân
Sức lực đã không còn
Đôi mắt còn rơi lệ.

Chân người mẹ vấp ngã
Nhưng không thể đứng lên
Khi hai người trong rừng
Chỉ người chồng giúp vợ.

Và người chồng vất vả
Bế người vợ trên tay
Bỗng nhiên từ bụi cây
Họ thấy con sư tử.

Quay trở lại vô ích
Con sư tử rung bờm
Rồi bước đi xung quanh
Khi họ nằm dưới đất.

Sư tử ngửi con mồi
Nhưng nỗi sợ tan biến
Khi con sư tử liếm
Nhẹ nhàng những bàn tay.

Họ nhìn vào sư tử
Không tin nổi mắt mình
Một linh hồn bằng vàng
Trong đôi mắt của họ.

Trên đầu đội vương miện
Với những lọn tóc xoăn
Tất cả đều màu vàng
Và linh hồn lên tiếng:

“Theo ta về cung điện
Nằm giữa cánh rừng già
Ở nơi đó Lyca
Đang say sưa giấc mộng”.

Họ liền theo sư tử
Chân bước theo mắt nhìn
Thấy giữa bầy hổ rừng
Con mình đang nằm ngủ.

Và kể từ ngày đó
Họ vẫn sống trong rừng
Không còn sợ tiếng gầm
Và coi thường tiếng hú.

The Little Girl Found

All the night in woe
Lyca's parents go
Over valleys deep,
While the deserts weep.

Tired and woe-begone,
Hoarse with making moan,
Arm in arm, seven days
They traced the desert ways.

Seven nights they sleep
Among shadows deep,
And dream they see their child
Starved in desert wild.

Pale through pathless ways
The fancied image strays,
Famished, weeping, weak,
With hollow piteous shriek.

Rising from unrest,
The trembling woman pressed
With feet of weary woe;
She could no further go.

In his arms he bore
Her, armed with sorrow sore;
Till before their way
A couching lion lay.

Turning back was vain:
Soon his heavy mane
Bore them to the ground,
Then he stalked around,

Smelling to his prey;
But their fears allay
When he licks their hands,
And silent by them stands.

They look upon his eyes,
Filled with deep surprise;
And wondering behold
A spirit armed in gold.

On his head a crown,
On his shoulders down
Flowed his golden hair.
Gone was all their care.

'Follow me,' he said;
'Weep not for the maid;
In my palace deep,
Lyca lies asleep.'

Then they followed
Where the vision led,
And saw their sleeping child
Among tigers wild.

To this day they dwell
In a lonely dell,
Nor fear the wolvish howl
Nor the lion's growl.


HOA HỒNG BỆNH

Hồng ơi, em sắp chết
Vì con sâu vô hình
Nó bay giữa trời đêm
Giữa bão giông gào thét.

Nó tìm ra chiếc giường
Của niềm vui đỏ thắm
Bằng tình yêu thầm kín
Giết chết cuộc đời em.

The sick rose

O Rose, thou art sick!
The invisible worm
That flies in the night,
In the howling storm,

Has found out thy bed
Of crimson joy:
And his dark secret love
Does thy life destroy.


CON RUỒI

Tội nghiệp cho con ruồi
Đang đùa vui, ca hát
Bàn tay tôi bóp nát
Do vô ý mà thôi.

Chẳng lẽ không phải tôi
Cũng con ruồi như bạn?
Và ai nói ruồi chẳng
Cũng con người như tôi?

Tôi đang uống rượu đây
Đang hát hò, vui nhộn
Đến khi tay mù quáng
Giơ ra chộp lấy tôi.

Nếu suy nghĩ là đời
Là sức mạnh, hơi thở
Nơi không còn suy nghĩ
Là kết thúc cuộc đời.

Và như vậy thì tôi
Một con ruồi hạnh phúc
Cho dù tôi đã chết
Hay vẫn còn sống đây.

The Fly

Little Fly
Thy summers play,
My thoughtless hand
Has brush'd away.

Am not I
A fly like thee?
Or art not thou
A man like me?

For I dance
And drink & sing:
Till some blind hand
Shall brush my wing.

If thought is life
And strength & breath:
And the want
Of thought is death;

Then am I
A happy fly,
If I live,
Or if I die.


CHÚA SƠN LÂM

Chao ôi hổ! Hổ cháy bừng như lửa
Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm
Ánh mắt nào, bàn tay nào bất tử
Có thể tạo ra cái vẻ kinh hoàng.

Giữa trời cao, hay chốn nào sâu thẳm
Đôi mắt của ngươi rực lửa cháy lên?
Và nỗi khát khao nào trên đôi cánh?
Bàn tay nào ngọn lửa dám tịch biên?

Bờ vai nào, và từ đâu nghệ thuật
Tạo đường gân thớ thịt của con tim?
Mỗi khi con tim dồn lên nhịp đập
Chân tay nào tạo nên vẻ khiếp kinh?

Đe búa nào, và từ đâu xiềng xích?
Trong thử thách nào trí tuệ của ngươi?
Đã nhào nặn ra vòng vây khủng khiếp
Và cái ôm choàng sợ hãi không thôi?

Khi những vì sao tung ngọn giáo của ngươi
Và khi bầu trời tuôn ra dòng lệ
Thấy việc làm của mình có mỉm cười?
Cái người tạo ra cừu non và hổ?

Chao ôi hổ! Hổ cháy bừng như lửa
Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm
Ánh mắt nào, bàn tay nào bất tử
Dám tạo ra ngươi với vẻ kinh hoàng?

The Tyger 

Tyger Tyger, burning bright, 
In the forests of the night; 
What immortal hand or eye, 
Could frame thy fearful symmetry? 

In what distant deeps or skies. 
Burnt the fire of thine eyes? 
On what wings dare he aspire? 
What the hand, dare seize the fire? 

And what shoulder, & what art, 
Could twist the sinews of thy heart? 
And when thy heart began to beat, 
What dread hand? & what dread feet? 

What the hammer? what the chain, 
In what furnace was thy brain? 
What the anvil? what dread grasp, 
Dare its deadly terrors clasp! 

When the stars threw down their spears 
And water'd heaven with their tears: 
Did he smile his work to see? 
Did he who made the Lamb make thee? 

Tyger Tyger burning bright, 
In the forests of the night: 
What immortal hand or eye, 
Dare frame thy fearful symmetry?


CÂY HOA HỒNG XINH ĐẸP CỦA TÔI

Người ta tặng cho tôi bông hoa nhỏ
Không như hoa nở rộ giữa tháng năm
Nhưng tôi nói tôi có cây hoa hồng
Và tôi đi ngang qua bông hoa đó.

Tôi đi đến với cây hoa hồng đẹp
Để chăm sóc hoa ngày cũng như đêm
Nhưng hoa hồng quay lưng lại vì ghen
Tôi lấy gai làm niềm vui duy nhất.

My Pretty Rose Tree

A flower was offerd to me;
Such a flower as May never bore.
But I said I've a Pretty Rose-tree:
And I passed the sweet flower o'er.

Then I went to my Pretty Rose-tree;
To tend her by day and by night.
But my Rose turnd away with jealousy:
And her thorns were my only delight.


ÔI, HƯỚNG DƯƠNG

Ôi, hướng dương! Mệt mỏi theo thời gian
Từng bước đi của mặt trời tính đếm
Xứ sở vàng ánh kia vẫn xa xăm
Nơi kết thúc con đường người du lãng.

Về nơi đó, từ ngôi mộ tối tăm
Cả cô gái trong áo quan màu trắng
Cả chàng trai chất chứa những ước mong
Về nơi hướng dương của tôi muốn đến.

Ah! Sun-flower

Ah Sun-flower! weary of time,
Who countest the steps of the Sun:
Seeking after that sweet golden clime
Where the travellers journey is done. 

Where the Youth pined away with desire,
And the pale Virgin shrouded in snow: 
Arise from their graves and aspire, 
Where my Sun-flower wishes to go. 


HOA HUỆ

Hoa hồng e lệ có gai che chở
Còn cặp sừng bảo vệ chú cừu non
Nhưng hoa huệ với sắc đẹp trắng trong
Chỉ tình yêu – huệ không cần gì cả.

The Lilly

The modest Rose puts forth a thorn,
The humble sheep a threat’ning horn:
While the Lily white shall in love delight,
Nor a thorn nor a threat stain her beauty bright.




VƯỜN TÌNH

Tôi trở lại khu vườn tình yêu xưa
Nơi đùa chơi trên cỏ hoa ngày bé
Lại nhìn thấy tháp chuông của nhà thờ
Đứng giữa màu xanh ngập tràn hoa cỏ.

Những cánh cửa tháp chuông đóng im lìm
“Không được mở” – chữ đề trên cánh cửa
Tôi quay trở lại với khu vườn tình
Đâu rồi cỏ hoa êm đềm ngày cũ?

Tôi nhìn quanh, bốn phía toàn mồ mả
Bên một nấm mồ cha mặc áo đen
Đọc bản thánh ca, giọng trầm buồn bã
Niềm vui tôi tan vào bụi tầm xuân.

The Garden of Love

I went to the Garden of Love, 
And saw what I never had seen: 
A Chapel was built in the midst, 
Where I used to play on the green. 

And the gates of this Chapel were shut, 
And Thou shalt not. writ over the door; 
So I turn'd to the Garden of Love, 
That so many sweet flowers bore. 

And I saw it was filled with graves, 
And tomb-stones where flowers should be: 
And Priests in black gowns, were walking their rounds, 
And binding with briars, my joys & desires.


LONDON

Tôi đi lang thang qua từng con phố
Bên nước sông Thêm đang chảy lững lờ
Tôi nhìn thấy cảnh khắp nơi nghèo khổ
Nỗi buồn trên những gương mặt xác xơ.

Trong tiếng khóc của mỗi người đàn ông,
Trong tiếng trẻ con khóc vì sợ hãi
Tôi nghe tiếng xiềng xích của tâm linh
Trong những lời nguyền mà tôi nghe thấy.

Tiếng người thông ống khói đang than vãn
Đang làm cho u ám cả nhà thờ
Và tiếng thở dài của bao người lính
Xuyên bức tường của Cung điện Hoàng gia.

Nhưng nửa đêm còn kinh hoàng hơn nữa
Có tiếng kêu la của gái làm tiền
Tiếng khóc thét của những trẻ sơ sinh
Và xe tang cho những đôi vừa cưới.

London

I wander thro' each charter'd street,
Near where the charter'd Thames does flow. 
And mark in every face I meet
Marks of weakness, marks of woe.

In every cry of every Man,
In every Infants cry of fear,
In every voice: in every ban,
The mind-forg'd manacles I hear 

How the Chimney-sweepers cry
Every blackning Church appalls, 
And the hapless Soldiers sigh
Runs in blood down Palace walls 

But most thro' midnight streets I hear
How the youthful Harlots curse
Blasts the new-born Infants tear 
And blights with plagues the Marriage hearse.


NỖI BUỒN CON TRẺ

Mẹ tôi rên rỉ, bố tôi khóc
Tôi rơi vào thế giới hiểm nguy
Bất lực, trần truồng và khóc thét
Giống như con quỉ trong đám mây.

Trong vòng tay cha tôi cựa mình
Tôi bị buộc ràng vì quấn tã
Trong khi mệt mỏi tôi nghĩ rằng
Tốt nhất chúi đầu vào ngực mẹ.

Infant Sorrow

My mother groaned, my father wept:
Into the dangerous world I leapt,
Helpless, naked, piping loud,
Like a fiend hid in a cloud.

Struggling in my father's hands,
Striving against my swaddling bands,
Bound and weary, I thought best
To sulk upon my mother's breast. 


CÂY THUỐC ĐỘC

Khi người bạn của tôi làm tôi giận
Tôi ghìm lòng và cơn giận qua mau
Khi kẻ thù của tôi làm tôi giận
Tôi lặng im nhưng cơn giận dâng trào.

Tôi giấu nó trong sợ hãi xa xôi
Đêm và sáng cùng nước mắt của tôi
Với mưu chước mềm mỏng và gian dối
Và tôi đem sưởi ấm bằng nụ cười.

Và nó lớn lên, đêm cũng như ngày
Như quả táo đã chín ở trên cây
Khi kẻ thù của tôi nhìn thấy nó
Thì nhận biết rằng chính nó của tôi.

Thế rồi cũng đến một đêm tối trời
Kẻ thù lẻn vào khu vườn của tôi
Và sáng ra tôi vui mừng nhận thấy
Kẻ thù tôi nằm bất động dưới cây.

A Poison Tree

I was angry with my friend; 
I told my wrath, my wrath did end. 
I was angry with my foe: 
I told it not, my wrath did grow. 

And I waterd it in fears, 
Night & morning with my tears: 
And I sunned it with smiles, 
And with soft deceitful wiles. 

And it grew both day and night. 
Till it bore an apple bright. 
And my foe beheld it shine, 
And he knew that it was mine. 

And into my garden stole, 
When the night had veild the pole; 
In the morning glad I see; 
My foe outstretched beneath the tree.


ĐỨA TRẺ LẦM LẠC

“Làm sao kính trọng và yêu người khác
Như ta vẫn yêu chính bản thân mình
Hoặc thừa nhận ý nghĩ của người khác
Là quan trọng hơn ý nghĩ của mình.

Và Cha ơi, làm sao con có thể
Yêu Cha hay anh em ở bên mình?
Con yêu Cha như yêu con chim non
Nhặt những mẩu vụn rơi bên cánh cửa”.

Vị linh mục ngồi gần nghe đứa trẻ
Vội vàng chộp lấy tóc đứa bé con
Nắm cổ áo, kéo cậu bé lên đàn
Và những người xung quanh đều ủng hộ.

Ông bước lên đàn cao và nói rõ:
“Đây chính là con quỉ đội lốt người
Điều bí ẩn ở trần thế xưa nay
Nó muốn hiểu bằng đầu óc bé nhỏ”.

Tiếng khóc của bé con không nghe rõ
Cha mẹ khóc lóc cũng chỉ hoài công
Họ lột hết, chỉ còn chiếc áo con
Dùng dây xích trói quanh người để giữ.

Và thiêu cậu bé ở nơi thiêng liêng
Nơi nhiều người từng bị thiêu trước đó
Mẹ và cha khóc lóc cho uổng phí
Điều này Người có thấy, hở Albion?
_______________
*Albion là tên gọi cũ của nước Anh. 

A Little Boy Lost

'Nought loves another as itself,
Nor venerates another so,
Nor is it possible to thought
A greater than itself to know.

'And, father, how can I love you
Or any of my brothers more?
I love you like the little bird
That picks up crumbs around the door.'

The Priest sat by and heard the child;
In trembling zeal he seized his hair,
He led him by his little coat,
And all admired his priestly care.

And standing on the altar high,
'Lo, what a fiend is here!' said he:
'One who sets reason up for judge
Of our most holy mystery.'

The weeping child could not be heard,
The weeping parents wept in vain:
They stripped him to his little shirt,
And bound him in an iron chain,

And burned him in a holy place
Where many had been burned before;
The weeping parents wept in vain.
Are such things done on Albion's shore? 


CÔ BÉ BỊ LẠC

Trẻ em trong tương lai
Đọc trang phẫn nộ này
Để biết rằng ngày trước
Tình yêu, tình mê say
Bị coi là tội ác.

Trong thời đại hoàng kim
Không có mùa đông lạnh
Trai đẹp và gái xinh
Với ánh sáng thiêng liêng
Thích trần truồng dưới nắng.

Cặp đôi trẻ, một hôm
Lòng chất đầy ước muốn
Đưa nhau ra khu vườn
Nơi ánh sáng thần thánh
Vừa xua đuổi màn đêm.

Và trong buổi bình minh
Chơi đùa trên hoa cỏ
Cha mẹ không ở đó
Người quen cũng không gần
Cô gái không còn sợ.

Mệt mỏi vì nụ hôn 
Họ hẹn nhau sẽ gặp
Khi mặt trời đã khuất
Giấc ngủ giữa trời đêm
Và lữ hành đang khóc.

Người cha tóc bạc trắng
Cô gái vội đi tìm
Trước ánh mắt yêu thương
Giống như quyển sách thánh
Cô thấy sợ, thấy run.

“Ona, sao tái nhợt
Tại vì sao con run
Tại vì sao con buồn?
Mái đầu cha đã bạc
Giờ tóc bạc nhiều thêm”. 

A Little Girl Lost

Children of the future age,
Reading this indignant page,
Know that in a former time
Love, sweet love, was thought a crime.

In the age of gold,
Free from winter's cold,
Youth and maiden bright,
To the holy light,
Naked in the sunny beams delight.

Once a youthful pair,
Filled with softest care,
Met in garden bright
Where the holy light
Had just removed the curtains of the night.

Then, in rising day,
On the grass they play;
Parents were afar,
Strangers came not near,
And the maiden soon forgot her fear.

Tired with kisses sweet,
They agree to meet
When the silent sleep
Waves o'er heaven's deep,
And the weary tired wanderers weep.

To her father white
Came the maiden bright;
But his loving look,
Like the holy book
All her tender limbs with terror shook.

'Ona, pale and weak,
To thy father speak!
Oh the trembling fear!
Oh the dismal care
That shakes the blossoms of my hoary hair!'

==



Các tập khác (20) 

BÍ MẬT CỦA TÌNH 

Đừng bao giờ về tình
Với người bằng lời nói
Bởi lời theo gió thổi
Lặng lẽ và vô hình.

Tôi nói hết với em
Những lời chất trong ngực
Lạnh run trong nước mắt
Sao tình vội đi nhanh!

Sau đó kẻ du hành
Đi qua đường lặng lẽ
Vô hình và kín kẽ
Sao tình thổn thức lên.

Love's Secret

Never seek to tell thy love
Love that never told can be 
For the gentle wind does move
Silently invisibly

I told my love I told my love 
I told her all my heart 
Trembling cold in ghastly fears
Ah she doth depart

Soon as she was gone from me
A traveller came by
Silently invisibly 
He took her with a sigh.



TUYẾT MỀM

Tôi ra đường vào một ngày tuyết rơi
Tôi bảo Tuyết hãy chơi cùng với tôi
Vừa mới chút đã dịu dàng tan chảy
Để Mùa đông gọi ngang tội giết người.

Soft Snow

I walked abroad in a snowy day;
I asked the soft snow with me to play;
She played and she melted in all her prime,
And the winter called it a dreadful crime.


CUNG ĐIỆN PHA LÊ  

Cô gái trẻ bắt cóc tôi trong rừng
Nơi tôi đang vui chơi và đang nhảy
Nàng dẫn tôi về cung điện của mình
Dùng ổ khóa bằng vàng đem khóa lại.

Cung điện này được xây nên bằng vàng
Bằng ngọc trai và pha lê sáng chói
Và cánh cửa nhỏ mở ra thế giới
Đêm nhỏ thôi nhưng đêm vẫn đầy trăng.

Tôi nhìn thấy một nước Anh khác hẳn
Và một ngôi Tháp khác ở Luân Đôn
Ngọn đồi khác và khác cả sông Thêm
Và dường như những người dân khác sống.

Cả cô gái bắt cóc tôi cũng khác
Mờ ảo, đáng yêu, trong suốt rõ ràng
Như ba cô gái xinh đẹp trẻ trung
Một nỗi sợ ngọt ngào không tả được.

Trước nụ cười, nụ cười gấp ba lần
Làm người tôi bừng lên như lửa cháy
Tôi cúi xuống để mà hôn cô gái
Đáp lại ba lần chỉ một nụ hôn. 

Tôi muốn ôm ấp dáng vẻ kín thầm
Bằng đam mê, bằng vòng tay bốc lửa
Nhưng cung điện kia bỗng nhiên sụp đổ
Và tôi nghe tiếng khóc của bé con.

Đứa bé đó đang nằm trên đất hoang
Người mẹ khóc, cúi mình trên đứa bé
Tôi đau đớn chỉ nhìn, và ngọn gió
Đang mang đi tất cả những đau buồn.

The Crystal Cabinet

THE MAIDEN caught me in the wild,
Where I was dancing merrily;
She put me into her Cabinet,
And lock’d me up with a golden key.
 
This Cabinet is form’d of gold
And pearl and crystal shining bright,
And within it opens into a world
And a little lovely moony night.
 
Another England there I saw,
Another London with its Tower,
Another Thames and other hills,
And another pleasant Surrey bower,
 
Another Maiden like herself,
Translucent, lovely, shining clear,
Threefold each in the other clos’d—
O, what a pleasant trembling fear!
 
O, what a smile! a threefold smile
Fill’d me, that like a flame I burn’d;
I bent to kiss the lovely Maid,
And found a threefold kiss return’d.
 
I strove to seize the inmost form
With ardour fierce and hands of flame,
But burst the Crystal Cabinet,
And like a weeping Babe became—
 
A weeping Babe upon the wild,
And weeping Woman pale reclin’d,
And in the outward air again
I fill’d with woes the passing wind.


BÔNG HOA RỪNG

Tôi thơ thẩn trong rừng
Giữa những chiếc lá xanh
Và tôi nghe bài hát
Của một bông hoa rừng.

“Ta ngủ trong bóng đêm
Lặng lẽ và dịu êm
Có biết bao nỗi sợ
Trong giấc ngủ mơ màng.

Thức dậy buổi bình mình 
Thấy vui vẻ trong lòng
Nhưng cuộc đời đón nhận
Với một vẻ coi thường”. 

The Wild Flower's Song

As I wandered the forest,
The green leaves among,
I heard a Wild Flower
Singing a song.

'I slept in the earth
In the silent night,
I murmured my fears
And I felt delight.

'In the morning I went
As rosy as morn,
To seek for new joy;
But oh! met with scorn.'




NỤ CƯỜI

Có nụ cười tình yêu
Có nụ cười gian dối
Khi cả hai hợp lại
Nụ cười của nụ cười. 

Có ánh mắt thù hằn
Có ánh mắt khinh bỉ
Có ánh mắt như thế
Thật khó để mà quên.

Bởi nó sâu trong lưng
Bởi nó sâu trong ngực
Và nụ cười đích thực 
Ta chỉ có một lần.

Là nụ cười chân thành
Nhưng mà buồn khủng khiếp
Nụ cười này chỉ gặp
Trong giờ phút lâm chung.

The Smile

There is a Smile of Love 
And there is a Smile of Deceit 
And there is a Smile of Smiles
In which these two Smiles meet 

And there is a Frown of Hate 
And there is a Frown of disdain 
And there is a Frown of Frowns
Which you strive to forget in vain 

For it sticks in the Hearts deep Core 
And it sticks in the deep Back bone 
And no Smile that ever was smild 
But only one Smile alone

That betwixt the Cradle & Grave
It only once Smild can be 
But when it once is Smild 
Theres an end to all Misery.


THANH KIẾM VÀ LƯỠI LIỀM

Kiếm hát về đồng hoang
Liềm – cánh đồng tươi tốt 
Kiếm dọa bằng cái chết
Nhưng không thắng được liềm.

The Sword and the Sickle

The sword sang on the barren heath,
The sickle in the fruitful field;
The sword he sung a song of death,
But could not make the sickle yield. 


HÃY ĐỂ LẠI CHO TÔI

Hãy để lại cho tôi những nỗi buồn
Tôi ngồi đây cho đến khi biến mất
Cho đến khi tôi trở thành linh hồn
Và bỏ lại xác thân từ đất sét.

Sau đó có ai đi dạo trong rừng
Nếu thấy buồn vì đường đi chẳng có
Sẽ thấy bóng của tôi qua màn đêm
Và nghe giọng nói của tôi trong gió.

Leave, O leave me to my sorrows

Leave, O leave me to my sorrows;
Here I'll sit and fade away,
Till I'm nothing but a spirit,
And I lose this form of clay.

Then if chance along this forest
Any walk in pathless way,
Thro' the gloom he'll see my shadow
Hear my voice upon the breeze.


CHIM TE TE

Sao lại bay dưới đồng hoang, chim te te
Không để ý lưới rải đầy phía dưới.
Sao không bay dưới những cánh đồng ngô?
Nơi người ta không thể nào đặt bẫy.

O Lapwing, thou fliest around the heath

O Lapwing, thou fliest around the heath
Nor seest the net that is spread beneath.
Why dost thou not fly among the corn fields?
They cannot spread nets where a harvest yields.


TRẢ LỜI VỊ LINH MỤC

-Sao con không học ở con cừu sự khiêm nhường?
-Thưa Cha, bởi vì con không muốn bị Cha cắt lông.

An Answer to the Parson

Why of the sheep do you not learn peace?
Because I don't want you to shear my fleece.


THƠ MỘ CHÍ CHO MÌNH

Cạnh mương nước kia là mộ của ta
Khóc bao nhiêu cũng được nhé, bạn bè. 

Epitaphs on himself

I was buried near this dyke,
That my friends may weep as much as they like.



THA THỨ CHO KẺ THÙ

Anh tha thứ cho kẻ thù nhưng điều tai họa
Là cho bạn bè không bao giờ tha thứ cả.

To forgive Enemies H. does pretend

To forgive Enemies H. does pretend
Who never in his Life forgave a friend.


GỬI HAYLEY

Tình bạn của anh làm cho trái tim tôi đau đớn
Hãy trở thành kẻ thù của tôi, dù chỉ vì tình bạn.

To H  (Hayley)

Thy Friendship oft has made my heart to ake
Do be my Enemy for Friendships sake.


GỬI FLAXMAN

Anh cười nhạo tôi – cứ việc tự nhiên
Tôi không cười anh một cách bí mật
Cứ việc gọi tôi là một thằng điên
Còn tôi gọi anh là đồ ngu ngốc.

To F[laxman]

I mock thee not, though I by thee am mocked;
Thou cal'st me madman, but I call thee blockhead.


GỌI TÔI LÀ THIÊN TÀI

Đời phải gọi tôi là một thiên tài:
Không yêu Flaxman, không khen Hayley.

My title as a genius thus is prov'd

My title as a genius thus is prov'd:
Not prais'd by Hayley, nor by Flaxman lov'd.



CẢ ĐỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG

Cả đời tôi đã cháy lên bằng lửa yêu thương
Giờ tôi muốn địa ngục, đã ngán thiên đường.
 
Grown old in Love from Seven till Seven times Seven

Grown old in Love from Seven till Seven times Seven
I oft have wishd for Hell for Ease from Heaven.


THIÊN THẦN CỦA TÔI

Thiên thần của tôi cúi xuống bên nôi
Và nói rằng: “Cứ sống ở trên đời
Với niềm hạnh phúc, với nhiều vui vẻ
Nhưng đừng mong sự giúp đỡ của ai”.

The Angel that presided o'er my birth

The Angel that presided o'er my birth
Said, 'Little creature, form'd of Joy and Mirth,
'Go love without the help of any Thing on Earth.'


TÔN THỜ MA QUỈ

Từ Ma quỉ, từ những bậc Đế vương
Ta có được tất cả sự giàu sang.
Tôi sợ mang tiếng tôn thờ Ma quỉ
Nếu cám ơn Trời vì những điều trên.

Since all the riches of this world

Since all the riches of this world
May be gifts from the Devil and earthly kings,
I should suspect that I worshipp'd the Devil
If I thank'd my God for worldly things.


THƠ MỘ CHÍ

Người qua đây hãy đập đầu vào đá
John Thompsons ở nơi này yên nghỉ.

An Epitaph

Come knock your heads against this stone
For sorrow that poor John Thompsons gone.



TÌNH YÊU TAN VỠ

1
Bóng ma của tôi suốt đêm suốt ngày
Như con thú vẫn rình rập quanh tôi
Sự khởi nguồn của tôi không ngừng nghỉ
Vẫn khóc than cho tội lỗi của tôi.

2
Trong chiều sâu vô tận và vô cùng
Ta lang thang lặng lẽ, ta khóc thầm
Trong cơn gió đói và cơn gió khát
Bóng ma tôi len lỏi đến gần em.

3
Nó đi lần trên tuyết dấu chân em
Dù em đi đâu, dù xa hay gần
Cho dù mưa giông, cho dù mưa đá
Có khi nào em quay trở về không?

4
Chẳng phải tự hào, khinh bỉ của em
Làm buổi sáng của tôi thành cơn giông
Chẳng phải vì ghen tuông và sợ hãi
Để tôi hằng đêm nước mắt tuôn ròng?

5
Chẳng phải bảy lần con dao của em
Làm cho cuộc đời, tình yêu đau thương
Và tôi xây bảy ngôi mồ cẩm thạch
Bằng giọt nước mắt lạnh lẽo rùng mình.

6
Và bảy người yêu nữa khóc đêm ngày
Quanh nấm mồ, nơi tình yêu của tôi
Bảy người yêu khác mỗi đêm lại đến
Bên chiếc giường với ngọn đuốc trong tay.

7
Bảy người yêu cúi xuống trong đau buồn
Đội vương miện cho kẻ nằm trên giường
Với tấm lòng bao dung và thương hại
Tha thứ cho em tất cả lỗi lầm.

8
Có khi nào em quay trở về không
Để làm cho sống lại những người tình?
Để cho tôi thôi tuôn dòng nước mắt
Và bỏ qua như tôi đã từng không?

9
Không quay về – anh đừng đợi đừng trông
Tôi là người chiến thắng nhạo cười anh
Khi còn sống – tôi là người yêu dấu
Khi chết rồi – là ngôi mộ của anh.

10
Qua mặt đất, địa ngục và thiên đường
Không còn rào cản và không ngại ngùng
Chuyến bay của tôi kéo dài xuyên suốt
Xuyên suốt những ngày xuyên suốt những đêm.

11
Bộ dạng nhợt nhạt, xanh xao, đáng thương.
Rằng tôi đang theo sau một cơn giông
Nước mắt, tiếng rên giống như chì nặng
Trói quanh đầu tôi chẳng khác gông xiềng. 

12
Tôi khóc trong vô vọng trước vô biên
Cho đến khi với tình tôi quay lưng
Và sau đó để hoàn toàn có thể
Xứng đáng bước vô trong cõi vĩnh hằng.

13
Và để cho nhạo báng khỏi nhân lên
Trên vách đá tôi đành hủy diệt em
Rồi sẽ tạo ra một hình thức khác
Để phụng sự cho số phận của mình.

14
Và thế rồi xuyên suốt cả vĩnh hằng
Em tha thứ cho tôi, tôi cho em
Giống như những lời từng ban của Chúa:
“Đây là bánh mì, còn đây rượu vang”*. 
_____________________

1)Bài thơ này được Blake đánh số đầu tiên có 14 khổ. Tuy nhiên, trong các ấn bản tiếng Anh khác nhau có thể có 15 hoặc 17 khổ nhưng cũng chỉ đánh số 14 là khổ cuối cùng. Điều này cho phép chúng tôi dịch theo số khổ mà chúng tôi cho là tự nhiên và hợp lý nhất.

2)Đây là một trong những bài thơ quan trọng nhất của William Blake có chủ đề liên quan mật thiết đến các tác phẩm lớn trong thời kỳ trưởng thành của ông. Trong bản gốc nó không có tên, tức là nó được đặt theo dòng đầu tiên: “My Spectre around me night & day”. Trong lần xuất bản đầu tiên của anh em Rossetti (1863), nó có tựa đề “Broken Love” (Tình yêu tan vỡ). Và trong ấn bản của Yeats (1905), được đổi tên thành “Spectre and Emanation” (Bóng ma và sự khởi nguồn), và những cái tên này vẫn được giữ nguyên tùy lúc, tùy theo người gọi.

Bài thơ bắt đầu bằng lời tự sự của tác giả, sau đó chuyển thành cuộc đối thoại giữa hồn ma và sự khởi đầu, cho thấy mối bất hòa sâu sắc của họ, khiến một người đau khổ. Trong bài thơ này, Blake được cho là đã miêu tả và phân tích một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Có vẻ như cuộc đối thoại này phản ánh một số loại hoàn cảnh gia đình tương tự, và trong trường hợp này, nó có thêm sự quan tâm về tiểu sử. Cuộc hôn nhân của Blake với Catherine Boucher, con gái của một người làm vườn giản dị, vô cùng hạnh phúc. Blake dạy cô đọc, viết và vẽ, cho cô một nền giáo dục, theo nghĩa đen là “tạo ra” cô, khiến cô trở thành hiện thân thực sự của ông. Hòa bình, hòa hợp và tình yêu luôn ngự trị trong mối quan hệ của họ, Catherine luôn giúp đỡ và hỗ trợ William. Tuy nhiên, mối quan hệ này không phải lúc nào cũng cơm lành canh ngọt, có những giai đoạn phức tạp, hiểu lầm, khác biệt về quan điểm, điều này được gợi ý trong một số tác phẩm của Blake, mà đặc biệt là trong tác phẩm này. 

*Ở đây Blake trích dẫn những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ, về Bí tích Thánh Thể, hoặc về Tiệc Thánh do Ngài thiết lập trong Bữa Tiệc Ly: “26Khi đương ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn-đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân-thể ta. 27Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi đưa cho môn-đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi; 28vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao-ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. 29Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta”. (Phúc âm Ma-thi-ơ, 26: 26-29; Xem thêm Mác, 14: 22 – 24; Luca, 22: 19 – 20).

Broken Love

1
MY Spectre around me night and day
Like a wild beast guards my way;
My Emanation far within
Weeps incessantly for my sin.

2
‘A fathomless and boundless deep,
There we wander, there we weep;
On the hungry craving wind
My Spectre follows thee behind.

3
‘He scents thy footsteps in the snow
Wheresoever thou dost go,
Thro’ the wintry hail and rain.
When wilt thou return again?

4
’Dost thou not in pride and scorn
Fill with tempests all my morn,
And with jealousies and fears
Fill my pleasant nights with tears?

5
‘Seven of my sweet loves thy knife
Has bereavèd of their life.
Their marble tombs I built with tears,
And with cold and shuddering fears.

6
‘Seven more loves weep night and day
Round the tombs where my loves lay,
And seven more loves attend each night
Around my couch with torches bright.

7
‘And seven more loves in my bed
Crown with wine my mournful head,
Pitying and forgiving all
Thy transgressions great and small.

8
‘When wilt thou return and view
My loves, and them to life renew?
When wilt thou return and live?
When wilt thou pity as I forgive?’

9
‘Never, never, I return:
Still for victory I burn.
Living, thee alone I’ll have;
And when dead I’ll be thy grave.

10
‘Thro’ the Heaven and Earth and Hell
Thou shalt never, quell:
I will fly and thou pursue:
Night and morn the flight renew.’

11
‘Poor, pale, pitiable form
That I follow in a storm;
Iron tears and groans of lead
Bind around my aching head.

12
‘Till I turn from Female love
And root up the Infernal Grove,
I shall never worthy be
To step into Eternity.

13
‘And, to end thy cruel mocks,
Annihilate thee on the rocks,
And another form create
To be subservient to my fate.

14
‘And throughout all Eternity
I forgive you, you forgive me.
As our dear Redeemer said:
“This the Wine, and this the Bread.”’
1800-1803



NHỮNG LỜI TIÊN ĐOÁN NGÂY THƠ
(Trích một số khổ)

Trong hạt cát ta nhìn ra Thế giới
Cả Thiên đường trong một bông hoa dại
Trong một giờ khắc có cả Vĩnh hằng
Và Vô tận trong bàn tay giữ lấy.
………………………..
……………………….
Và cứ mỗi đêm và cứ mỗi ngày
Có những đứa trẻ sinh ở đâu đây.
Cứ mỗi ngày rồi mỗi đêm như vậy
Có người sinh ra sung sướng suốt đời
Có người sinh ra suốt đời khổ ải
Họ sinh ra trong bất tận đêm dài.

……………………………
……………………………
Chúng ta dễ tin những điều gian dối
Khi mắt ta nhìn mà không nhìn thấy
Sinh ra trong đêm rồi chết trong đêm
Khi hồn ngủ quên trong ánh sáng chùm. 

Và Chúa xuất hiện, Chúa là ánh sáng
Cho những linh hồn tội nghiệp trong đêm
Nhưng trong hình dáng của con người trần
Cho những ai đã quen cùng ánh sáng.

Auguries of Innocence

To see a World in a grain of sand,
And a Heaven in a wild flower,
Hold Infinity in the palm of your hand,
And Eternity in an hour.
…………………..
…………………..  
Every Night and every Morn
Some to Misery are Born.
Every Morn and every Night
Some are Born to sweet delight.
Some are Born to sweet delight,
Some are Born to Endless Night.
………………..
………………..
We are led to believe a lie
When we see not thro' the eye,
Which was born in a night to perish in a night,
When the soul slept in beams of light.

God appears, and God is light,
To those poor souls who dwell in night;
But does a human form display
To those who dwell in realms of day.



MỤC LỤC

NHỮNG BÀI HÁT NGÂY THƠ (10) 
Lời dẫn nhập 
Người chăn thú
Tiếng vọng màu xanh
Chiên nhỏ
Cậu bé da đen
Đứa trẻ bị lạc
Tìm thấy đứa trẻ
Bài hát vui
Hình ảnh thánh thần
Niềm vui con trẻ

NHỮNG BÀI HÁT KINH NGHIỆM (17)
Lời dẫn nhập 
Mặt đất trả lời
Cục đất và hòn đá
Cô bé bị lạc
Tìm thấy cô bé
Hoa hồng bệnh
Con ruồi
Chúa sơn lâm
Cây hoa hồng xinh đẹp của tôi
Ôi, Hướng dương
Hoa huệ
Vườn tình
London
Nỗi buồn con trẻ
Cây thuốc độc
Đứa trẻ lầm lạc
Cô bé bị lạc

CÁC TẬP KHÁC (20) 
Bí mật của tình
Tuyết mềm
Cung điện pha lê
Bông hoa rừng
Nụ cười
Thanh kiếm và lưỡi liềm
Hãy để lại cho tôi
Chim te te
Trả lời vị Linh mục
Thơ mộ chí cho mình
Tha thứ cho kẻ thù
Gửi Hayley
Gửi Flaxman
Gọi tôi là thiên tài
Cả đời đã yêu thương
Thiên thần của tôi
Tôn thờ Ma quỉ
Thơ mộ chí  
Tình yêu tan vỡ
Những lời tiên đoán ngây thơ 






Thơ Robert Burns


Robert Burns (25/2/1759 – 21/7/1796) là nhà thơ dân tộc Scotland, tác giả của các tập thơ, trường ca và những bài hát dân gian cải biên viết bằng tiếng Anh phương ngữ Scotland.

Tiểu sử:
Robert Burns sinh ở Alloway, South Ayrshire, Scotland, trong một gia đình nông dân nghèo. Suốt đời phải vật lộn với cảnh nghèo túng. Lên 12 tuổi được bố gửi đến trường học, cậu bé thích đọc nhiều và yêu thích thơ của Milton và Shakespeare. Biết làm thơ từ năm 15 tuổi. Năm 1784 bố mất, Burns và em trai chuyển đến trang trại Mossgiel ở Mauchline, công việc của Burns là làm việc ở trang trại kết hợp với làm thơ. Năm 1785 Burns yêu cô Jean Armour (1767-1834) – con gái của một kiến trúc sư giàu có trong vùng đã có thai với Burns. Burns đã viết tờ cam kết sẽ cưới cô làm vợ nhưng ông bố cô đã xé tờ cam kết và tuyên bố rằng không bao giờ gả con gái – dù là đứa hư hỏng cho một kẻ tay trắng như Burns. 

Không còn nhìn thấy tương lai ở quê hương và tình yêu cũng bị ngăn cấm Burns quyết định sang châu Mỹ (Jamaica) làm việc cho một thương gia. Nhưng tiền đi đường không có và không vay mượn đâu được, Burns nghĩ ra một cách – mặc dù rất ngờ vực là in thơ bán lấy tiền. Không ngờ, tập thơ Poems, Chiefly in the Scottish Dialect (Thơ, chủ yếu viết bằng phương ngữ Scotland) của Burns in ra bán rất chạy. Trước ngày lên đường sang châu Mỹ Burns nhận được thư mời lên thủ đô Edinburgh tái bản sách và làm việc. Chuyến đi được hoãn lại… Armour sau lần mang thai thứ hai bị ông bố đuổi ra khỏi nhà và cuối cùng hai người cũng lấy được nhau. Vinh quang đã đến với Burns nhưng cuộc đời của ông vẫn vất vả và không yên ổn vì những vụ kiện tụng xuất phát từ những mối liên hệ với nhiều người phụ nữ khác. Burns mất ngày 21-7-1796 ở Dumfries.

Tác phẩm:
*Poems, Chiefly in the Scottish Dialect(Thơ, chủ yếu viết bằng phương ngữ Scotland, 1786) 1786, thơ
*Tam O' Shanter. 1790, truyện thơ
*The Antiquities of Scotland (Scotland cổ, 1789), truyện thơ
*Select Collection of Original Scottish Airs (Tuyển tập những bài hát cổ Scotland, 1793-1805), lời bài hát dân gian
*The Works of Robert Burns. Ed. By Thomas Stewart, 1801-1802
*The Works of Robert Burns. Ed by James Hogg and William Motherwell, 5 vols, 1834-1836.
*The Works of Robert Burns. Ed by Allan Cunningham, 8 vols, 1834. 
*The Poems and Songs of Robert Burns. Ed. By James Kinsley, 3 vols, 1968


Một số bài thơ

ÊLIZA
(Farewell To Eliza)

Vĩnh biệt em, Êliza thân thiết
Và với người vĩnh biệt nhé, quê hương!
Bởi số phận hẩm hiu đành vĩnh biệt
Đến muôn đời ta cách bởi đại dương.

Nhưng dù cho ngăn cách ta biển rộng
Chẳng có gì chia cắt nổi con tim
Anh sẽ gửi tình anh theo ngọn sóng
Sẽ gửi hồn anh về với hồn em.

Vĩnh biệt em, Êliza thân thiết
Hai chúng mình chỉ còn gặp trong mơ
Một giọng nói thì thầm cho anh biết
Rằng hai ta không gặp nữa bao giờ.

Nhưng em ạ, phút giây này đau khổ
Tựa hồ như cái chết đã sau lưng
Anh sẽ gửi về em từng hơi thở
Và con tim với nhịp đập cuối cùng!
_____________________
(1)Bài thơ này (và nhiều bài khác) được viết trong thời kỳ Burns chuẩn bị đi sang Jamaica. 



MỘT NỤ HÔN DỊU DÀNG
(Ae fond kiss)

Nụ hôn này rồi theo ta đến chết
Thôi nhé em, đến muôn đời vĩnh biệt
Con tim này giờ nức nở khôn nguôi
Nỗi nhớ em theo anh suốt cuộc đời.

Ai buồn đau vì đời không may mắn
Chứ anh đâu dám trách gì số phận
Nhưng bây giờ trước mặt anh
Tất cả chỉ còn bóng tối vây quanh.

Anh đâu trách nỗi đam mê của mình
Đâu trách đời vì đã trót yêu em
Ai gặp em mà chẳng yêu say đắm
Đã yêu rồi, giờ chia tay sao đặng. 

Nếu ta đừng yêu bằng tấm chân tình
Nếu ta đừng yêu mù quáng, cuồng điên
Nếu đừng chia ly, nếu đừng gặp gỡ
Thì tim ta chẳng bao giờ tan vỡ.

Vĩnh biệt em, người yêu dấu nhất
Vĩnh biệt em, người yêu xinh đẹp
Cầu chúc cho em mọi sự tốt lành
Cầu chúc cho em hạnh phúc, bình an.

Nụ hôn này rồi theo ta đến chết
Thôi nhé em, đến muôn đời vĩnh biệt
Con tim này giờ nức nở khôn nguôi
Nỗi nhớ em theo anh suốt cuộc đời.




EM HÃY CÒN BÉ LẮM
(I'm O'er Young To Marry Yet)

Quanh năm sống với mẹ
Em còn bé, thưa Ngài!
Nếu sống với người lạ
Em sợ lắm, thưa Ngài!

Em hãy còn bé lắm
Để làm vợ người ta
Bây giờ em chỉ muốn
Cùng với mẹ ở nhà.

Ngày lễ Thánh qua rồi
Đêm mùa đông dài lắm
Một mình em với người
Chao ôi, em sợ lắm!

Cây khô cành trơ trọi
Gió lạnh thổi đêm đêm
Nếu thương em hãy đợi
Sang hè em lớn thêm.




LÒNG TÔI Ở CAO NGUYÊN
(My Heart's In The Highlands)

Lòng tôi ở Cao nguyên, không ở nơi này
Lòng tôi ở Cao nguyên theo dấu chân nai
Mơ đuổi hươu rừng nhớ theo vết hoẵng
Lòng tôi ở Cao nguyên, dù tôi xa vắng.

Tạm biệt nhé Cao nguyên, núi rừng phương bắc
Quê hương anh hùng nghĩa tình son sắt
Dù khi đi xa hay ở rất gần
Tôi vẫn nhớ Cao nguyên như nhớ người thương.

Tạm biệt nhé, những đồi cao tuyết trắng
Tạm biệt nhé, thung lũng xanh trải rộng
Tạm biệt nhé, hàng cây rủ bên đèo
Tạm biệt nhé, tiếng nước chảy, suối reo.

Lòng tôi ở Cao nguyên, không ở nơi này
Lòng tôi ở Cao nguyên theo dấu chân nai
Mơ đuổi hươu rừng nhớ theo vết hoẵng
Lòng tôi ở Cao nguyên, dù tôi xa vắng.




VĨNH BIỆT XCỐTLEN
(Such A Parcel Of Rogues In A Nation)

Thôi vĩnh biệt Xcốtlen thân thiết
Xứ sở nghìn năm lịch sử ngoan cường
Tên gọi Xcốtlen giờ đây vĩnh biệt
Tổ quốc muôn đời hùng vĩ, oai phong!

Nơi Sark đổ ra vịnh Solway bát ngát
Và Tweed xua giặc tới biển xanh
Tất cả giờ đây đã thành mảnh đất
Bị chia làm tỉnh lẻ của người Anh.

Dùng sức mạnh chẳng hề chinh phục nổi 
Quê hương ta hàng bao thế kỷ nay
Nhưng đã bán chúng ta quân phản bội
Vì những đồng tiền dơ bẩn lắm thay!

Sắt thép người Anh chẳng thể nào khuất phục
Những người con đã chiến đấu ngoan cường
Nhưng người Anh đã đem vàng mua chuộc
Đáng rủa nguyền những kẻ bán quê hương!

Tôi chỉ tiếc chẳng dự vào trận đánh
Cùng anh em chiến đấu với quân thù
Vì quê hương được hy sinh anh dũng
Như Bruce, Wallace sáng mãi nghìn thu!

Nhưng mãi mãi cho đến giờ phút cuối
Xin được nói lên dõng dạc, đàng hoàng:
Sẽ nguyền rủa muôn đời quân phản bội
Những kẻ tham vàng bán rẻ quê hương!
-----------------------------
*Năm 1707 Anh và Xcốtlen ký “Hiệp ước liên minh” (The Act of Union), theo đó hai nước thống nhất thành một quốc gia và giải tán quốc hội Xcốtlen. Trong một thời gian dài “Hiệp ước liên minh” vẫn gợi trong lòng người dân Xcốtlen một cảm giác sỉ nhục và bị phản bội. 
Quân phản bội, bịp bợm (parcel of rogues) là cụm từ mà dân chúng dùng để gọi các đại biểu quốc hội (Scottish Commissioners). Thời Robert Burns họ gồm có 31 người. 




TÌNH NHƯ HOA HỒNG ĐỎ
(A Red Red Rose)

Người yêu anh như bông hoa hồng đỏ
Bông hoa tươi đang nở giữa mùa hè
Người yêu anh như bài ca trong gió
Giai điệu ngọt ngào, êm ái, say mê.

Nét duyên dáng của người em yêu dấu
Với tình anh chỉ có một trên đời
Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
Đến bao giờ biển cạn hết mới thôi.

Biển chẳng cạn bao giờ, em yêu dấu
Như đá kia trơ gan với mặt trời
Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
Dù dòng đời cứ thế, chẳng ngừng trôi.

Tạm biệt nhé, người em yêu dấu
Chia tay nhau em nhé đừng buồn
Anh sẽ về với người em yêu dấu
Dù phải đi qua ngàn vạn dặm đường.





NHÀ EM BÊN SUỐI
(A Waukrife Minnie)

Tôi hỏi: “em đi đâu,
Đi đâu mà vội thế?”
Em kiêu hãnh lắc đầu:
“Em đi theo lời mẹ!”

“Nhà em đâu-tôi hỏi-
Ơ gần hay ở xa?”
“Nhà em ở bên suối
Em sống với mẹ già”.

Tôi tìm về nơi ấy
Nhưng em giấu mẹ già
Gần sáng cùng tỉnh dậy
Em đã bớt kiêu sa.

Chú gà trống ngủ quên
Chưa cất lên tiếng gáy
Nhưng hình như giường bên
Mẹ già đang thức dậy.

Mẹ nhìn anh giận dữ
Lôi em ra khỏi giường
Rồi lấy chiếc roi dẻ
Đánh em thấy mà thương.

Tạm biệt người em gái!
Người em gái kiêu sa!
Anh mong ngày gặp lại
Nhưng anh sợ mẹ già.





QUÁN TRỌ ĐÊM ĐÔNG
(The Lass That Made The Bed To Me)

Giữa rừng đêm tối mịt
Ngọn gió rét tháng giêng
Nhà cửa bưng kín mít
Tôi tìm nơi trọ đêm.

May mắn thay trên đường
Tôi gặp người con gái
Nàng tỏ ý sẵn lòng 
Mời tôi về nghỉ lại.

Tôi cúi chào lễ phép
Người con gái làm ơn
Rồi tỏ ra lịch thiệp
Nhờ nàng giúp trải giường.

Tấm vải rộng làm chiếu
Nàng trải chiếc giường con
Rót mời tôi chén rượu
Nàng chúc tôi ngủ ngon.

Rồi lấy đi ngọn đèn
Nhìn theo nàng tôi gọi:
“Nàng ơi cảm phiền em
Cho anh nhờ chiếc gối”.

Nàng mang tôi chiếc gối
Đặt nhẹ xuống đầu giường
Nàng dễ thương quá đỗi
Khiến tôi ôm chặt nàng.

Đôi má nàng ửng đỏ
Như thoáng chút thẹn thùng
“Nếu yêu em hãy giữ
Đời con gái nghe anh!”.

Mái tóc xoăn mềm mại
Toả mùi hương ngất ngây
Của mùi hương hoa huệ
Khiến lòng tôi mê say.

Bộ ngực nàng tròn căng
Ngỡ như cơn gió mạnh
Của buổi sớm mùa đông
Dồn tuyết về thành đụn.

Tôi hôn nàng mải miết
Lên mắt biếc môi hồng
Thịt da nàng tinh khiết
Như hương ngọn gió rừng.

Nàng ngoan ngoãn dễ thương
Đôi mắt hiền nhắm lại
Giữa tôi và bức tường
Nàng ngủ say êm ái.

Tỉnh giấc lúc sáng trời
Tôi yêu nàng lần nữa
“Trời, em chết mất thôi!”-
Nàng rưng rưng, nức nở.

Hôn đôi mắt đẫm ướt
Mái tóc đượm mùi hương
Tôi nói: “còn nhiều lượt
Em giúp anh trải giường!”

Nàng ngồi dậy tìm kim
May cho tôi chiếc áo
Trong buổi sáng tháng giêng
Nàng ngồi may chiếc áo.

Thời gian thấm thoắt trôi
Hoa bên rừng đã nở
Nhưng tôi nhớ suốt đời
Đêm mùa đông quán trọ.



TÔI CẦN MỘT NGƯỜI VỢ
(I Hae a Wife O' My Ain) 

Tôi cần một người vợ
Xấu tốt gì cũng xong
Chỉ cần là phụ nữ
Mà phụ nữ không chồng.

Béo mập hay gầy nhom 
Tóc vàng hay tóc bạc
Thế nào mà chẳng được
Trong đêm trời tối đen.

Nếu như còn trẻ trung
Thì cũng vui đấy chứ
Còn nếu như già khụ
Tôi góa bụa sớm hơn.

Nếu như nàng sinh con
Tôi lấy làm vui vẻ
Còn nếu không sinh hạ
Càng ít phải quan tâm.

Nếu nàng yêu rượu vang
Cứ việc say sưa uống
Còn nếu không màng đến
Tôi còn lại nhiều hơn.



NGƯỜI GÓA VỢ HẠNH PHÚC
(The Joyful Widower) 

Tôi làm đám cưới nàng
Mười bốn tháng mười một
Nhưng rồi đời khó nhọc
Muốn treo cổ nhiều lần.

Tôi chịu lép vế nàng
Mang trên mình gánh nặng
Nhưng cuối cùng may mắn
Vợ tôi đã lìa trần.  

Đã từng hai mươi năm
Tôi với nàng chung sống
Thế mà sao nàng bỗng
Lặng lẽ rời cõi dương.

Tôi có thể đoán rằng
Ở bên kia thế giới
Biết đâu sau này lại
Được gặp gỡ với nàng.

Tôi tổ chức đàng hoàng
Khâm liệm và chôn cất
Tôi tin quỉ địa ngục
Sẽ không tiếp nhận nàng.

Mà nghĩ ở thiên đàng
Thì người ta mới nhận
Bởi vì nàng từng giống
Tiếng sét xé mây đen.



TẠI VÌ AI ĐẤY
(For the sake o' Somebody)

Trong lòng này không yên
Suốt ngày chờ ai đấy.
Suốt đêm đợi bình minh
Tất cả vì ai đấy.

Ai đấy không cùng tôi
Biết tìm đâu người ấy
Tôi đi khắp cõi đời
Chỉ để tìm ai đấy.

Hỡi ai người gìn giữ
Những sức mạnh kín thầm
Hãy quay về lần nữa
Cái người tôi yêu thương.

Ai đấy không cùng tôi
Tôi buồn điều gì đấy.
Thề tất cả trên đời
Tôi trao cho ai đấy.

Variant:
Ta đau khổ vì ai
Con tim này trĩu nặng
Thức thâu đêm suốt sáng
Ta khổ với người này.

Nhưng nào đâu có ai
Biết tìm ai đâu đó
Ta đi khắp thiên hạ
Để tìm bóng hình này.

Sức mạnh và mê say
Của tình yêu ai giữ
Cầu xin ngươi hãy trả
Ta bóng dáng yêu này.

Nhưng nào đâu có ai
Biết tìm ai đâu đó
Ta xin dâng tất cả 
Để có được người này.
1794



LỜI CHÚC RƯỢU
(Auld Lang Syne)

Có phải đã quên tình xưa
Và không buồn về nó nữa?
Có phải dã quên tình cũ
Tình yêu của tháng ngày xa?

Ta uống chúc tình bạn ngày xưa
Cạn chén!
Chúc hạnh phúc ngày xưa!
Anh và em cùng uống
Chúc hạnh phúc ngày qua.

Hãy mang chén cho nhiều
Và rót cho đầy chén
Ta uống chúc tình yêu.

Chúc tình bạn ngày qua
Cạn chén!
Chúc hạnh phúc ngày xanh!
Qua từng cốc rượu cũ
Chúc hạnh phúc ngày xanh!

Anh và em đã từng giẫm lên
Hoa cỏ những cánh đồng thân thuộc
Nhưng không một bầu nhiệt huyết
Ta lấy từ những tháng ngày xanh.

Ta bơi qua không chỉ một lần
Anh và em từng bơi qua suối nhỏ
Nhưng ngăn cách ta biển cả
Người bạn của những tháng ngày xanh.

Và bây giờ anh lại gặp em
Tay em trong bàn tay anh
Anh uống chúc tình yêu cũ
Và chúc tình bạn đã từng.

Chúc tình bạn xưa
Cạn chén!
Chúc hạnh phúc ngày xưa!
Anh uống cùng em, người bạn cũ
Chúc hạnh phúc ngày xưa.



Auld Lang Syne

Should auld acquaintance be forgot, 
and never brought to mind? 
Should auld acquaintance be forgot, 
and auld lang syne*?

CHORUS:

For auld lang syne, my jo, 
for auld lang syne, 
we’ll tak a cup o’ kindness yet, 
for auld lang syne.

And surely ye’ll be your pint-stowp! 
and surely I’ll be mine! 
And we’ll tak a cup o’ kindness yet, 
for auld lang syne.

CHORUS

We twa hae run about the braes, 
and pu’d the gowans fine; 
But we’ve wander’d mony a weary fit, 
sin auld lang syne.

CHORUS

We twa hae paidl’d i' the burn, 
frae morning sun till dine; 
But seas between us braid hae roar’d 
sin auld lang syne.

CHORUS

And there’s a hand, my trusty fiere! 
and gie's a hand o’ thine! 
And we’ll tak a right gude-willy waught, 
for auld lang syne.


Thơ John Keats


John Keats (31 /10 /1795 – 23 /2 /1821) – nhà thơ Anh, người cùng thời với Shelley, Byron, một đại diện tiêu biểu của trường phái lãng mạn Anh thế kỉ XIX.

Tiểu sử:
John Keats sinh ở Moorgate, London, là con trai cả của Thomas Keats và Frances Jennings Keats. Năm 1804 bố mất, ba tuần sau đó mẹ đi lấy chồng nên các con ở với bà ngoại. Năm 1810 mẹ chết vì bệnh lao phổi, hậu quả của cái chết này là sau đó các con trai của bà cũng chết vì bệnh này.
Từ năm 1803-1811 học ở trường tư, năm 1811 học ngành y ở King's College London. Thời gian này Keats đã rất say mê thơ ca, tốt nghiệp ngành y nhưng Keats không làm bác sĩ mà theo đuổi sự nghiệp thơ ca. Năm 1817 in tập thơ “Poems”, năm sau in tiếp trường ca “Endymion”. Năm 1820 in tập thơ cuối cùng.

Cuộc đời của Keats thật ngắn ngủi nhưng sự nghiệp thơ ca mà ông để lại cho đời là vô giá. Keats nổi tiếng là nhà thơ ca ngợi cái đẹp “Cái đẹp là chân lý, chân lý là cái đẹp, thế thôi, đấy là tất cả những gì ta biết và ta cần biết”. Theo quan niệm của ông, nghệ thuật là phải thể hiện cái đẹp chứ không phải là thứ vũ khí của chính trị, khoa học hay tôn giáo. Nhà thơ không phải là lãnh tụ, không phải là người thầy, nhà thơ không nên tham gia vào đấu tranh xã hội mà nhà thơ – trước hết là người sáng tạo.

Keats mất ở Ý vì bệnh lao phổi. Ông được mai táng tại nghĩa trang Tin lành ở Roma, trên mộ có dòng chữ đề: “tên của người này in trên nước” (whose name was writ in water). 




Tác phẩm:
- Thơ (Poems), 1817 
- Thần Endymion (Endymion, 1818)
- Isabella (Isabella, 1818)
- Hyperion (Hyperion, 1819)
- Đêm trước của Thánh Agnes (The Eve of St. Agnes, 1919)
- Bài thơ về bình hoa Hy Lạp (Ode to a Grecian urn, 1819)
- Bài thơ gửi Họa mi (Ode to a nightingale, 1819) 
- Về nỗi u sầu (On Melancholy, 1919)
- Gửi Mùa thu (То autumn, 1919)
- Bài thơ gửi Psyche (Ode to Psyche, 1919)
- Toàn tập tác phẩm (The poetical works and other writings of J. Keats, 4 vv., 1883)
- Thơ (Poetical works, 1929) 

Một số bài thơ 


LA BELLE DAME SANS MERCI (1)
(The original version, 1819)

“Chàng kỵ sĩ có điều chi phiền muộn
Mà đi lang thang buồn bã một mình?
Để cây bên hồ chỉ còn lá rụng
Và chẳng còn nghe tiếng hót của chim.

Chàng kỵ sĩ có điều chi phiền muộn
Có điều chi lo lắng ở trong lòng?
Cho chú sóc một vụ mùa đầy đặn
Đã kết thúc mùa gặt hái trên đồng.

Ta thấy rằng: như hoa huệ trong sương
Vầng trán ngươi ướt đầm đìa lạnh lẽo
Có điều chi đau đớn lắm trong hồn
Đôi má ngươi như hoa hồng đang héo”.

Ta đã gặp trên đồng người con gái
Nàng đẹp xinh tựa như một cô tiên
Mái tóc dài, gót chân nàng tươi rói
Và lẳng lơ, hoang dại ánh mắt nhìn.

Ta kết vòng hoa cho nàng đội lên đầu
Vòng đeo tay toả hương thơm ngào ngạt
Nàng nhìn ta với ánh mắt u sầu
Và ta nghe tiếng thở dài dịu ngọt.

Ta bế nàng lên yên ngựa của mình
Suốt cả ngày với nàng trong yên lặng
Nàng cất lên những bài hát của tiên
Đôi mắt nàng nhìn về nơi xa vắng.

Nàng trao ta cội nguồn hương dịu mát
Và những gì mật ngọt tháng ngày xanh
Rồi thốt lên những lời kỳ quặc:
“Em yêu anh chân thành”.


Nàng đưa ta vào lâu đài tình ái
Nàng khóc lên và rên rỉ đau thương
Ta nhìn thấy đôi mắt nàng hoang dại
Ta khép mắt nàng bằng bốn nụ hôn.

Nàng vỗ về, ru ta vào giấc ngủ
Ta đi vào giấc mộng – nhưng than ôi!
Giấc mơ cuối cùng ta không còn nhớ
Rằng chỉ mình ta lạnh lẽo trên đồi.

Ta nằm mơ thấy hoàng tử tình si
Vẻ tái nhợt trong cơn đau gào thét:
“La Belle Dame Sans Merci
Ngươi thấy rồi và ngươi đã chết!”

Ta nhìn thấy những bờ môi khát khao
Đang gào lên những lời nghe khiếp đảm.
Ta tỉnh giấc và thấy trên đồi cao
Một mình ta nằm bên bờ dốc lạnh.

Từ dạo đấy ta đâm ra thờ thẩn
Vẻ xanh xao ta lảng vảng một mình
Cây bên hồ giờ chỉ còn lá rụng
Và chẳng còn nghe tiếng hót của chim.
__________________
(1) Người đẹp không thương xót (tiếng Pháp). Tên của bài thơ này lặp lại tên một trường ca của nhà thơ Pháp. A. Chartier (1385 – 1433). Không chỉ ở trong thơ của Chartier, mà mô-típ “Người tình đau khổ”(L’amant martyr) còn hay gặp trong thơ của Francois Villon.



Về bài thơ "La Belle Dame sans Merci"

La Belle Dame sans Merci (tiếng Pháp: Người đẹp không có lòng thương xót) – là một bài ballad của John Keats. Bài thơ này có hai phiên bản với một chút ít khác nhau. Bản đầu tiên được Keats sáng tác ngày 21 tháng 4 năm 1819. Bản hiệu đính theo đề nghị của Leigh Hunt ngày 10 tháng 5 năm 1820. 

Bài thơ này lần đầu tiên in ở tạp chí The Indicator của Hunt ngày 10 tháng 5 năm 1820. La Belle Dame Sans Merci lấy lại tên trường ca của nhà thơ Pháp thời trung cổ Alain Chartier. Nguồn gốc của ballad này là truyền thuyết Tannhäuser của Đức, trường ca hiệp sĩ The Faerie Queene của Edmund Spenser và The Anatomy of Melancholy của Robert Burton (Câu chuyện về chàng hiệp sĩ sầu muộn).

Nội dung:

Bài ballad của John Keats kể về cuộc gặp gỡ của chàng kị sĩ vô danh với một nàng tiên ẩn ước. Chàng kị sĩ cô đơn, kiệt sức vì một nỗi buồn thơ thẩn trên đồng vắng. Tác giả hỏi chuyện chàng và chàng kể lại một câu chuyện. Một hôm chàng gặp người đẹp có “ánh mắt nhìn hoang dại”. Chàng bế nàng ngồi lên ngựa, thế rồi nàng dẫn chàng đi vào cõi tiên. Trong cõi này nàng đã nức nở, thổn thức. Chàng hôn lên đôi mắt hoang dại của nàng, rồi nàng vỗ về, ru chàng đi vào giấc mộng.

Trong giấc mơ chàng thấy hoàng tử tình si gào thét rằng chàng đã bị rơi vào vòng tù hãm của người đẹp và bị người đẹp giã từ không thương tiếc. Chàng kị sĩ tỉnh giấc thấy “một mình trên đồi lạnh” và kể từ dạo đấy chàng đâm ra thơ thẩn, với gương mặt tái nhợt chàng lang thang không mục đích ở cái miền mà cây cối “chỉ còn lá rụng và không còn tiếng hót của chim”.

Ý nghĩa: 
Ballad La Belle Dame Sans Merci chỉ gồm 12 khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng nhưng là một câu chuyện đầy những bí ẩn. Keats mô tả chàng kị sĩ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết – gương mặt tái nhợt của chàng như một bông hoa huệ (biểu tượng của cái chết trong văn hóa phương Tây), héo hon và tàn úa – có thể chàng đã chết, và trả lời câu chuyện là một bóng ma, là linh hồn của chàng. Trong nguyên bản bài ballad nói về người đẹp đã quyến rũ chàng kị sĩ, chi tiết này gần gũi với những truyền thuyết Thomas Learmonth (Thomas the Rhymer) hoặc Tam Lin.

Thông thường các kị sĩ bị ràng buộc bởi lời nguyền đạo đức, thế nhưng ở đây chàng kị sĩ của John Keats đã bị quyến rũ bởi tiên (chứ không phải người trần), nên đã bị trừng phạt. Những người phát ngôn của phái nữ quyền cho rằng kị sĩ đã hãm hiếp cô gái, do vậy Chúa đã trừng phạt chàng. Dẫn chứng cho điều này, người ta dẫn câu thơ: “she wept, and sigh’d full sore” (nàng khóc lóc, và những tiếng thở dài đau đớn).

Dù sao, sự phân tích này không thực sự thuyết phục vì trong bài thơ ta thấy rõ ràng rằng cô đã nói lời yêu chàng chân thành, đã quyến rũ chàng đi vào cõi tiên (hang động, nơi tiên ở). Thành ra câu thơ “she wept, and sigh’d full sore” có thể hiểu là cô tiên đã mất trinh tiết sau khi yêu. Cũng có thể đấy là khát khao cháy bỏng được yêu chàng. Ý nghĩa câu này phụ thuộc vào nội dung cả bài ballad: liệu đấy là một bài thơ lãng mạn, trữ tình hay tác giả có ý lồng vào một ý nghĩa đạo đức. Nếu xem xét rộng ra toàn bộ sáng tạo của John Keats thì ta có thể chắc chắn rằng đấy là câu chuyện tình cảm lãng mạn chứ Keats hoàn toàn không muốn hướng nó về trí tuệ hay luân lý.

Ảnh hưởng đến hội họa và âm nhạc: 
Nàng tiên bí ẩn La Belle Dame sans Merci trở thành nhân vật nổi tiếng trong tác phẩm của các họa sĩ nhóm tiền Raphael như: Frank Dicksee, Frank Cadogan Cowper, John William Waterhouse, Arthur Hughes, Walter Crane, Henry Maynell Rheam. Ngày 1 tháng 12 năm 1920 tạp chí Punch đã in một tiểu phẩm khôi hài về đề tài này.

Nhạc sĩ Charles Villiers Stanford phổ nhạc lời của bài thơ này thành một khúc lãng mạn nổi tiếng. Thể hiện tác phẩm này đòi hỏi người hát cũng như người đệm đàn có trình độ cao. Khúc lãng mạn này nổi tiếng cho đến ngày nay và luôn được các nghệ sĩ nổi tiếng nhất thể hiện.
Nhạc sĩ Patrick Hadley viết khúc tứ tấu cho giọng nam cao và dàn nhạc.
La Belle Dame sans Merci là nguồn cảm hứng cho Tony Banks (nhóm Genesis) viết bài hát The Lady Lies (1977). 




EM VẪN NÓI RẰNG YÊU

(You Say You Love)  

I

Em vẫn nói rằng yêu nhưng câu trả lời
Trong giọng nói của em sao hờ hững
Nghe có vẻ giống như lời cầu nguyện
Trong tiếng ngân vang của những hồi chuông.
Hãy yêu anh thật lòng!

II

Em vẫn nói rằng yêu nhưng nụ cười em
Lạnh lẽo như ánh bình minh tháng chín
Có vẻ như thần Tình yêu sai khiến
Em nén lòng trong tuần lễ chay chăng.
Hãy yêu anh thật lòng!

III

Em vẫn nói rằng yêu nhưng đôi môi em
Không hạnh phúc, ánh bừng lên sắc đỏ
Giữa biển lớn, ngọc giấu mình trong đó
Không bao giờ chịu để một ai hôn.
Hãy yêu anh thật lòng!

IV

Em vẫn nói rằng yêu nhưng bàn tay em
Không siết chặt tay anh, không thiện cảm
Em như bức tượng, không hề sống động
Trước tình yêu cháy bỏng của anh.
Hãy yêu anh thật lòng!

V

Bằng những lời đẹp đẽ từ trái tim
Bằng nụ cười cháy bừng như ngọn lửa
Bằng nụ hôn, hãy dìm anh trong đó
Trong lửa tình hừng hực trái tim em.
Hãy yêu anh thật lòng!


SONNET

(The day is gone, and all its sweets are gone!) 

Ngày ra đi, tất cả mang theo mình
Giọng nói ngọt ngào, bờ môi, ánh mắt
Ngực ấm áp và những lời đùa cợt
Bàn tay êm và tiếng thổn thức lòng.

Tất cả nhạt phai, hoa cũng héo tàn
Trong đôi mắt đã tàn phai nhan sắc
Từ bàn tay đã không còn vẻ đẹp
Cả nhiệt tình, trinh trắng cũng héo hon.

Tất cả tiêu tan, khi bóng tối nhá nhem
Đem thay ngày lễ bằng đêm thần thánh
Bức màn hương của tình yêu buông xuống
Dành cho đam mê chỉ có bóng đêm.

Cuốn kinh tình yêu tôi đọc ban ngày
Tôi nguyện cầu giấc ngủ hãy đến đây!



VỀ CÁI CHẾT 

(On Death)

1
Có thể chết là ngủ, nhưng đời là giấc mơ
Những ngày vui thoáng qua như ảo ảnh
Và hạnh phúc cũng qua rất chóng vánh
Sao ý nghĩ về cái chết vẫn cứ hạ hành ta. 

2
Thật lạ lùng, người ta sống trên trần
Là bể khổ, nhưng vẫn không từ bỏ
Ý nghĩ về cuộc sống đầy gian khó
Và vẫn mong mình sẽ được hồi sinh. 



NGÔI SAO SÁNG

(Bright star) 

Giá mà ta vĩnh hằng như sao sáng
Nhưng mà không chiếu sáng giữa cô đơn
Hay muôn thuở thao thức giữa trời đêm
Nhìn thế gian bằng đôi mắt hờ hững.

Thần thánh làm dòng nước kia chuyển động
Rửa sạch cho những bờ bến nhân gian
Và khoác lên trang phục của mùa đông 
Cho đồi núi trong đất trời xoay chuyển.

Ta rất muốn vĩnh hằng, không suy suyển
Để tựa đầu lên ngực đẹp yêu thương
Và lắng nghe từng hơi thở nhẹ nhàng
Và thức mãi trong ngọt ngào âu yếm.

Để lịm đi trong hơi thở của nàng
Để sống muôn đời – hoặc sẽ chết muôn năm.